CHƯƠNG I
NGUYỄN DU VÀ TÁC PHẨM
MỤC II:
VĂN NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du được đánh
dấu qua các tác phẩm Hán văn và được biết đến nhiều hơn cả là
các tác phẩm quốc âm c̣n lan truyền cho đến ngày nay mà Truyện
Kiều (tức Đoạn Trường Tân Thanh) là một điển h́nh.
Đương thời các sĩ phu rất khen phục văn tài lỗi
lạc của năm danh sĩ mệnh danh là “An Nam Ngũ Tuyệt” trong đó,
Nguyễn Du và cháu là Nguyễn Đạm đă chiếm hai chỗ rồi. (Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, Tang Thương Ngẫu Lục). Điều đó cũng
phản ánh phần nào văn tài và xác định văn nghiệp Tố Như. Tuy
nhiên, để có thể hiểu được phần nào văn nghiệp Tố Như, không
ǵ hơn là lần lượt đi t́m hiểu các tác phẩm của ông.
TIẾT 1: TÁC PHẨM HÁN VĂN VÀ
ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT
A. TÁC PHẨM HÁN VĂN
Khi t́m hiểu Nguyễn Du, hầu như người ta chỉ
chú ư đặc biệt đến các tác phẩm quốc văn mà xao lăng những tác
phẩm viết bằng Hán văn của tiên sinh. Điều này một phần là do
các tác phẩm chữ Hán ít được phổ biến rộng răi so với các tác
phẩm quốc văn của Tố Như nên chưa được quan tâm đúng mức.
Trong khoảng thời gian 1920 trở về sau, có rất
nhiều học giả như các ông: Bùi Kỷ, Lê Thước, Đào Duy Anh, Trần
Trọng Kim, Phạm Quỳnh … đă ra công sưu tập được một phần lớn
và cho công bố lẻ tẻ đăng rải rác trên các sách báo bấy giờ.
Một phần nào đó, chúng ta đều công nhận cố gắng của Phạm Quỳnh
khi đề xướng phong trào ca tụng Truyện Kiều. Nhờ thế, một số
tác phẩm khác nhau của Nguyễn Du đă được lưu ư và phát hiện
vào khoảng năm 1931 trên tạp chí Nam Phong. Đồng thời, trước
đó các ông Lê Thước và Phan Sĩ Bàng đă xuất bản vào năm 1924
“Truyện cụ Nguyễn Du”, đến năm 1942, ông Đào Duy Anh cũng cho
xuất bản “Nguyễn Du Văn Họa Phổ”
và năm 1943 “Khảo luận về Kim Vân Kiều”. Trong những sách xuất
bản này, tác giả chỉ công bố một số ít thơ Hán văn mà thôi.
Khoảng thời gian sau này, thỉnh thoảng người ta
lại thấy xuất hiện một số thơ chữ Hán của Tố Như đăng rải rác
trên các báo bên cạnh những bài thơ đă được công bố từ lâu.
Năm 1966, nhà thơ Thi Vũ ở Paris đă sao lục được thêm một số
lớn thơ chữ Hán nữa và đă gửi cho nhà thơ Quách Tấn cả thảy
245 bài (“Thanh Hiên thi tập” 75 bài, “Nam Trung tạp ngâm” 40
bài và Bắc Hành tạp lục” 130 bài). Mặc dầu số thơ này chưa
phải toàn bộ là thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhưng nhà thơ Quách
Tấn cho đến thời gian này (1973) mới chỉ diễn dịch được 104
bài thơ và cho xuất hiện trong số “Tố Như Thi”
.
Chúng ta chờ đợi những công bố mới, dù ít dù nhiều sẽ là những
tài liệu quí báu giúp ít cho việc khảo cứu Nguyễn Du và đặc
biệt Đoạn Trường Tân Thanh. Mặt khác, việc hiệu đính của tác
phẩm chữ Hán này cũng cần được chú trọng. Chúng ta mong đợi
công tŕnh của các bậc túc nho vậy. Trong thời gian này, ngoài
Bắc các ông Trương Chính, Nguyễn Thạch Giang cũng có những
công tŕnh rất quan trọng.
Thơ chữ Hán của Tố Như tương truyền xuất phát
từ ba tập thơ Hán văn:
Thanh Hiên Tiền Hậu Tập (青軒前後集)
Nam Trung Tạp Ngâm (南中雜吟)
Bắc Hành Tạp Lục (北行雜録)
Bên cạnh c̣n có tập Lê Quư Kỷ Sự (黎季紀事)
tương truyền cũng là tác phẩm Hán văn của Nguyễn Du ghi chép
những sự việc xảy ra từ cuối đời nhà Lê và trong cuộc đời làm
quan của ông. Cho tới ngày nay người ta vẫn chưa biết rơ về
tác phẩm thứ tư này, ngoài những thi phẩm chữ Hán kể trên.
Phân tích ba tập thơ chữ Hán, chúng ta nhận
thấy Tố Như đă làm ra trong những thời kỳ khác nhau. Đồng thời
chân nhận phần nào tâm trạng và tư tưởng của tiên sinh hầu như
có thể soi sáng cho Truyện Kiều. Theo đó, chúng ta có thể tạm
phân định như sau:
1.
Thanh Hiên Tiền Hậu Tập là những
bài thơ làm ra từ trước và trong thời kỳ làm quan. Căn cứ vào
việc t́m hiểu và phân tích ư tưởng của bài thơ nơi tập này,
người ta thấy rơ Nguyễn Du tiên sinh đă sáng tác qua ba giai
đoạn:
- Giai đoạn tha hương nơi đất khách, tiêu dao ở
núi Hồng Lĩnh sông Lam (1786-1795).
- Giai đoạn trở về sinh sống ở quê nhà
(1796-1802).
- Giai đoạn ra làm quan với nhà Nguyễn
(1802-1820).
Tuy nhiên, sự phân định này không có ǵ là chắc
chắn cả; các bài thơ chữ Hán thâu thập rải rác đă được xếp
loại dựa vào phần lớn ư tưởng và các địa danh mà tiên sinh đề
cập mà thôi. Chúng ta vẫn chưa thấy ai nêu rơ sự kiện này.
Dầu vậy, nh́n một cách tổng quát, chúng ta nhận
thấy phần lớn những tư tưởng về đạo, những ư nghĩa về cuộc đời
và thiên nhiên, những t́nh cảm dành cho bạn bè, gia đ́nh và
nhất là mối tâm sự chất ngất của tiên sinh hầu như đều nằm ở
thi tập này. Mặt khác, ngay tên gọi của thi tập cũng cho thấy
phần nào ư nghĩa của các bài thơ bên trong.
2.
Nam Trung Tạp Ngâm là những bài
thơ được sáng tác trong thời kỳ làm quan ở kinh đô Huế
(1805-1808) và tại Quảng B́nh (1809-1812) (vùng đất Nam Trung
là địa danh chỉ giang sơn cũ trước kia của nhà Nguyễn nằm từ
Hoành Sơn trở vào Nam, Bắc Hà thuộc vua Lê, chúa Trịnh nằm từ
Hoành Sơn trở ra).
Phần lớn những bài thơ trong tập Nam Trung được
công bố đă phản ánh tâm trạng của tiên sinh nơi chốn quan
trường. Tiên sinh cảm thấy như bị giam hăm tù túng trong đời
sống đầy sự tranh đua phiền toái này. Do đó tiên sinh đă tỏ vẻ
luyến tiếc nhớ nhung về một thời thong dong “nghêu ngao vui
thú yên hà” của ngày tháng cũ. Dù muốn dù không, chúng ta cũng
phải công nhận rằng thời kỳ làm quan của Nguyễn Du tuy hanh
thông, nhưng tiên sinh có vẻ “bất đắc chí” là một điều hẳn
nhiên. Những bài thơ trong tập này nếu được xét kỹ sẽ chứng
thực sơ điều này.
3. Bắc Hành Tạp Lục gồm các bài thơ làm
trong thời gian đi sứ triều cống Trung Hoa (1813-1815). Sắp
xếp theo các địa danh và đầu đề của những bài thơ này, chúng
ta sẽ vạch được con đường đi của ông từ kinh đô Phú Xuân cho
đến khi sang Tàu và trở về. Đồng thời, con đường đi này cũng
thể hiện phần nào tâm thức của tiên sinh biến chuyển theo từng
chặn hành tŕnh.
Từ Kinh đô đến thành Thăng Long và qua đến Bắc
Kinh chất đầy bao nỗi ưu tư, khắc khoải về cuộc đời. Khi nhiệm
vụ hoàn tất, trên đường về ghé đến Nam Kinh và dưới chân “Phân
Kinh Thạch Đài”, tiên sinh đă chứng ngộ được diệu nghĩa, giải
đáp được nỗi lo nghĩ mà kinh điển và cuộc đời đem lại. Từ đây,
cuộc hành tŕnh của tiên sinh đă phần nào thoải mái hơn, tâm
thức của tiên sinh cũng đă đổi khác.
B. ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG ĐẠO PHẬT
Như đă tŕnh bày trong các phần trên, chúng ta
đă thấy dấu vết đạo Phật trong các thi phẩm của Nguyễn Du tiên
sinh khá đặc biệt. Chất liệu của loại đạo Phật này vẫn dựa vào
đời sống, dựa vào cảnh vật thiên nhiên, nhưng đă mang một
phong vị mới và dưới một lăng kính khác. Việc t́m hiểu về đạo
Phật trong các thi phẩm này, phải với một lối nh́n thật cởi mở
và đứng đắn người ta mới dễ dàng chấp nhận nó. Đặc chất của
loại đạo Phật ấy không c̣n nguyên vẹn và khô khan của những
nguyên lư hay những học thuyết nguyên thủy, nhưng đă biến thái
dưới chiều hướng có vẻ pha trộn dấu vết của Lăo Trang – hay
nói cho đúng hơn – là dấu vết của Thiền. Thiền là ǵ? Đó là
câu hỏi ngàn đời không thể trả lời được nếu không bước vào
nguồn suối của nó. Và Nguyễn Du tiên sinh trong hầu hết thi ca
Hán văn đă lấy đối tượng của cảnh vật thiên nhiên đổi thay bốn
mùa, của trời trăng mây nước ḥa với ư nghĩ của ḿnh để tạo
thành một loại thơ nhuốm màu sắc đạo giáo. Đây là một thứ “tôn
giáo của một nghệ sĩ” (The religion of Artist) – nói theo một
tác phẩm của Tagore – nên các bài thơ này là một bức tranh
thủy mạc chấm phá đôi nét những tâm sự gửi vào trang thơ như
một niềm mơ ước trở về cố hương:
“… Hà năng lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân”
(Tự thán
2)
何 能
落 髮
歸
林 去
臥 聼
松 風
響
半 雲
(自嘆 二)
Tạm chuyển lục bát:
Làm sao xuống tóc vào rừng,
Nghe thông lộng gió nửa chừng tầng mây
(Than thân –
Bài 2)
hoặc:
“ … Dao ức gia hương thiên lư ngoại,
Trạch xa, đoạn mă quư đông lân”
(Mạn hứng
1)
遙 億
家
鄉 千 里 外
澤 車 段 馬 愧 東 鄰
(漫興
一)
Xa nhớ quê hương ngàn dặm, thẹn với người hàng
xóm cỡi ngựa đủng đỉnh.
Tạm chuyển lục bát:
Nhớ nhà ngàn dặm xa xôi,
Xóm đông xe ngựa rong chơi thẹn ḷng
(Mạn hứng 1)
hoặc:
“… Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng
Bất dung trần cấu tạp thanh hư
Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt
Điểm điểm tinh thần du thái sơ”
(Ngọa
bệnh 1)
未有 文 章 生 孽 障
不 容 塵 垢 雜 清 虛
三 蘭 窗 下 吟 聲
絶
點 點 精 神 遊 太 初
(臥病
一)
Chưa có chuyện văn chương sinh nghiệt chướng,
không để bụi bặm lẫn vào chốn trong sạch. Dưới của sổ có ba
khóm lan, bặt tiếng ngâm. Tinh thần dần dần về cơi ban sơ.
Tạm chuyển lục bát:
Chưa hề sinh lụy văn chương
Cơi không trong lắng chẳng vương bụi đời
Bên lan ba khóm ngâm vời,
Tinh thần dần đến cơi trời ban sơ.
(Nằm bệnh
1)
hoặc:
“… Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian
U cư sầu cực hốt tri hoan
Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt
Xử sĩ môn tiền thanh giả san …”
(Tạp ngâm 2)
龍 尾 江 頭 屋 一 閒
幽 居 愁 極 忽 知 歡
達 人 心 境 光 如 月
處 志 門 前 青 者 山
(雜吟。二)
(Đầu sông Long Vĩ một gian nhà, ở trong nơi
vắng vẻ sầu cực độ bỗng thấy vui. Cơi ḷng của kẻ đạt nhân
sáng như trăng. Trước của ngơ người xử sĩ là sắc núi xanh … ).
Tạm chuyển lục bát:
Đầu sông Long Vĩ một nhà,
Quá buồn ở ẩn chốc đà
hân hoan.
“Đạt nhân” ḷng sáng như trăng
Trước nhà người ẩn giăng hàng núi xanh.
(Tạp ngâm – Bài
2)
Nhưng có lẽ rơ nhất là bài Đạo Ư. Chúng ta sẽ
thấy quả thật là Tố Như đă thấu hiểu lẽ thiền:
“Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh
Tỉnh thủy vô ba đào
Bất bị nhân khiên xả
Thử tâm chung bất dao
Túng bị nhân khiên xả
Nhất dao hoàn phục chỉ
Trạm trạm nhất phiến tâm
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy”
明 月 照 古 井
井 水 無 波 濤
不 被 人 牽 扯
此 心 終 不 搖
縱 被 人 牽 扯
一 搖 還 復 止
湛 湛 一 片 心
明 月 古 井 水
(道意)
Tạm chuyển lục bát:
Giếng xưa trăng sáng soi vào,
Nước kia sóng chỉ gợn trào giếng đây
Chẳng ai trói buộc dắt bày
Không làm lay động ḷng này xôn xao
Dẫu ai dẫn dắt đi nào
Lao xao rồi lại trở vào lắng trong
Sâu dày cả một cơi ḷng
Giếng xưa vằng vặc sáng vầng trăng soi.
(Nói ư
ḿnh)
Thêm vào đó, một số bài thơ khác, chẳng hạn như
bài “Đề nhị thanh động”, Tố Như tiên
sinh đă bày tỏ cơi ḷng ḿnh trước vũ trụ thiên nhiên; tâm
thức của tiên sinh nơi đây hoàn toàn mang phong khí của đạo
thiền, hiểu đạo thiền như là tinh hoa của đạo Phật và trong
kích thước của những nhà nghệ sĩ:
ĐỀ NHỊ THANH ĐỘNG
Bàn cổ sơ phân bất kư niên
Sơn trung sinh quật, quật sinh tuyền
Vạn ban thủy thạch thiện đại xảo
Nhất lập càn khôn khai tiểu thiên
Măn cảnh giai không hà hữu tướng
Thử tâm thường định bất ly thiền
Đại sư vô ư diệc vô tận
Phủ thán thành trung đa biến thiên.
題二青洞
盤 古 初 分 不 記 年
山 中 生 窟 窟 生 泉
萬 般 水 石 擅 大 巧
一 粒 乾 坤 開 小 天
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
大 師 無 意 亦 無 盡
俯 嘆 城 中 多 變 遷
Tạm chuyển lục bát:
Trước bàn cổ chẳng nhớ năm,
Hang nằm ḷng núi, suối ngầm động sâu.
Lớp lang đá nước khéo sao!
Càn khôn một hạt mở thâu khoảnh trời.
Là không tướng trạng đâu rồi?
Ḷng này thường định chẳng rời thiền tâm
Bao la lẽ Phật ư không,
Biết bao thay đổi thành trong ngậm ngùi.
Toàn cảnh đều là không nào đâu là h́nh tướng?
Ḷng này thường định không rời Thiền… Ở giữa sự khéo léo của
hóa công ra tay xếp đặt cảnh trí vũ trụ, ḷng tiên sinh đă
nhận thức được tính chất vô thường của sắc tướng xuyên qua sự
chứng nghiệm của cái tâm đă luôn định và không rời Thiền.
Nhiều bài thơ khác cũng cho thấy phong vị
thiền, nhưng phạm vi tiểu luận nhỏ hẹp không cho phép đào sâu
hơn. Dầu vậy, một vài nét phác họa về ảnh hưởng thiền trong
thơ chữ Hán của Tố Như đă phần nào cho thấy tâm trí và con
người tiên sinh. Vả lại, thơ là để cảm nghiệm nhiều hơn là để
phân tích, để trực ngộ hơn là suy diễn dài ḍng nên khó có thể
tŕnh bày đâu là phong vị thiền. Định nghĩa được sẽ không c̣n
là thiền, sẽ không thấy được ư tứ mà thơ chất chứa. Có ích ǵ
không khi chúng ta bàn thêm vào những ǵ mà một thi sĩ đă
tŕnh bày, nhất là những bài thơ nói về một cơi thanh hư nào
đó như một hạnh ngộ. Và chỉ ai uống trà mới cảm nghiệm được
hương vị của tách trà, những ai “qua cầu” nh́n lại mới thấu rơ
đâu là nỗi đoạn trường mà thôi.
Chúng ta yêu mến, trân trọng
Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) v́ rất nhiều cái hay, cái
đẹp chứa đựng trong đó, nhất là nghệ thuật tả cảnh, tả t́nh,
cách sử dụng từ ngữ, nghệ thuật phô diễn tư tưởng đạo Phật… đă
đạt đến đỉnh cao trong nền thơ ca Việt Nam. Nhưng nếu chỉ dừng
lại ở Truyện Kiều mà không đi sâu vào “Thơ Chữ Hán” của Nguyễn
Du quả là một thiếu sót lớn trong cách nh́n về một tác giả có
tầm ảnh hưởng rộng khắp như tiên sinh. Muốn hiểu về con người,
tư tưởng và những suy nghĩ của Tố Như, cũng như những bước
đường đời của ông, “Thơ Chữ Hán” là một cánh cửa mở ra, soi rơ
tài năng và nhân cách lớn của một bậc thi hào. Đi từ Thanh
Hiên Tiền Hậu Tập, qua Nam Trung Tạp Ngâm cho đến Bắc Hành Tạp
Lục đều chứa đựng những dấu ấn để ta thấy rơ và sâu hơn về
Nguyễn Du. Tính cách của một bậc thi hào theo đúng với nghĩa
của nó như Tố Như tiên sinh sẽ cho chúng ta thấy được nét tài
hoa, sự thâm thúy không kém ǵ các bậc thi hào như Lư Bạch, Đỗ
Phủ, Bạch Cư Dị, Vương Duy… của thơ ca Trung Hoa. Nghệ thuật
làm thơ Đường cũng như biết bao tư tưởng về nhân sinh, về đạo
Phật và nhất là thân phận con người trong “Thơ Chữ Hán” đă cho
thấy một tầm vóc lớn lao của một nhà thơ.
Đọc “Thơ Chữ Hán” để thấy được,
hiểu hơn về nhân cách, tài năng của Nguyễn Du và đọc Truyện
Kiều để chân nhận về những nét tài hoa ấy.
Đọc Kỳ 3