trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Ḥa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đă xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trải" (dịch và chú giải 2009)

 


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

 

 


Ảnh Hưởng Đạo PHẬT
Trong

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

Dương Anh Sơn
 

   

  

 

PHẦN MỘT 

VỀ NGUYỄN DU


 


 

CHƯƠNG II

 

NGUỒN GỐC

ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

 

 

TIẾT 3: TƯ TƯỞNG ĐẠO PHẬT TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ TRONG ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH

 

Tư tưởng đạo Phật trong “Kim Vân Kiều Truyện” và trong “Đoạn Trường Tân Thanh” có sự giống nhau và khác biệt nào? Đây là một vấn đề tưởng cũng cần được t́m hiểu hầu có thể nhận ra đâu là những nét chấm phá mới và độc đáo của Tố Như trong Truyện Kiều. Thực vậy, nh́n một cách tổng quát, cả hai cuốn truyện cùng diễn một “tuồng tích” này đều có những điểm tương đồng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng nhà Phật. Trước hết, cả hai đều khởi đầu bằng thuyết lư “Hồng nhan bạc mệnh” như một thứ định luật cố hữu theo niềm tin của người Đông phương và đặc biệt là Trung Hoa. Nhưng dưới cách nh́n của nhà Phật, những kẻ tài sắc thường bị mệnh bạc, tạo hóa ghen ghét chẳng qua v́ họ đă tạo nghiệp trong kiếp trước; kiếp này sinh ra có sắc có tài, nhưng tài sắc ấy chỉ làm cho họ khổ lụy như là hậu quả của sự gây nhân từ kiếp trước. Nhân vật Đạm Tiên có thể xem là một bằng chứng cho thuyết lư ấy và là đầu mối, là gương soi cho Thúy Kiều, một người cũng có tài sắc:

 

“Chắc v́ hoàn cảnh không may dun dủi vào nơi bể lửa vùi dập ngày xuân. Vậy th́ thuyền trước thuyền sau, biết đâu chị em ḿnh lại chẳng là kiếp sau của người đó?” [1]

 

Và với Tố Như, tiên sinh vẫn giữ lại ư tưởng này nhưng triển khai rộng hơn nhắm đến thân phận của đàn bà nói chung, trong đó có những kẻ hồng nhan:

 

“Đau đớn thay phận đàn bà              (c. 83)

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Phũ phàng chi bấy hóa công,

Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi pha”.

 

Và:

 

Rằng: “Hồng nhan tự ngh́n xưa,

       Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.

Bên cạnh đó, sự gặp gỡ giữa Đạm Tiên và Kiều không phải là sự ngẫu nhiên, vô cớ nhưng đă được sắp đặt bởi những chuỗi nhân duyên giữa hai người từ quá khứ theo một định luật thông thường về duyên khởi của nhà Phật.

 

Cái này có nên cái kia có.

Cái này diệt nên cái kia diệt.

Cái này sinh nên cái kia sinh.

 

Cũng vậy, Đạm Tiên có thể là hiện thân, là biểu tượng của đời Thúy Kiều, nhưng cũng có thể đều có sự tạo nghiệp giống nhau do bởi cả hai đều là kẻ tài sắc và những kẻ hồng nhan có tài sắc nói chung đều thường đón nhận một quả kiếp bạc bẽo. Đó phải chăng là một thứ cộng nghiệp áp dụng chung cho những người hồng nhan này? Do đó,Thanh Tâm Tài Tử đă đặt Kiều vào những suy nghĩ:

 

“Kiều nói:    Hôm nay chị đă có ḷng chiếu cố,

 đôi ta ắt có tiền duyên ...               (Sđd. tr. 46)

 

Một cách tương hợp, Nguyễn Du cũng chấp nhận như thế, nhưng thay v́ để Kiều phát biểu, tiên sinh lại dành cho Đạm Tiên biểu tượng cho bóng dáng của Kiều, cũng như bởi một thứ nhân duyên ngẫu nhĩ từ kiếp nào:

 

Thưa rằng:       “Thanh khí xưa nay,         (c. 193)

……

Âu đành quả kiếp nhân duyên,                 (c. 201)

Cũng người một hội một thuyền đâu xa ...

 

Ngoài ra, trong cả hai cuốn truyện này đều nhấn mạnh số kiếp và định nghiệp đời Kiều. Định nghiệp có lẽ bắt nguồn từ  nghiệp nhân kiếp trước nhưng bây giờ trước mắt Kiều cái định nghiệp ấy như một thứ ám ảnh đeo đuổi và không thể chối từ dù bằng cái chết của ḿnh.

 

Trong Kim Vân Kiều Truyện, Thanh Tâm Tài Tử qua lời Đạm Tiên đă nhắc nhở Thúy Kiều:

 

“Huống chi trong lúc ḿnh vừa chợp mắt, rơ ràng Đạm Tiên đă bảo: “Món nợ oan nghiệt chưa trang trải xong, vội thoát cơi trần sao được? Như vậy mà cứ liều chết, chẳng những nợ của kiếp trước chưa hoàn, mà nợ oan nghiệt kiếp này c̣n chồng chất lên nữa, th́ đến kiếp nào mới trả xong?”. [2]

 

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông vẫn giữ nguyên ư kiến của Thanh Tâm Tài Tử về định nghiệp, nhưng lại khoác vào đó một nguyên nhân tối thượng rất gần với tâm hồn Việt Nam là ông Trời. Song ông Trời ở đây có lẽ chỉ nên hiểu như một biểu tượng của màn lưới bao trùm định nghiệp oan tiền nghiệp chướng ấy:

 

Kể rằng: “Nhân quả dở dang,                (c. 995)

  Để toan trốn nợ đoạn tràng được sao!

  Số c̣n nặng kiếp má đào,

  Người dù muốn quyết trời nào đă cho!”

 

Hoặc:

 

“Vả trong thần mộng mấy lời,               (c. l017) 

Túc nhân âu cũng có trời ở trong.

Kiếp này nợ trả chưa xong,

Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!”

 

Nói khác đi, ông trời ở đây có thể tạm hiểu là một quyền năng của đấng hóa công trong quan niệm “Thiên mệnh” của Nho giáo, nhưng với Nguyễn Du, ông trời chỉ là một cách nói nôm na, b́nh dân của nghiệp nhân nghiệp quả mà thôi. Và đấy cũng chính là điểm khác biệt từ sự tương đồng giữa Kim Vân Kiều Truyện và Đoạn Trường Tân Thanh. Tố Như tiên sinh trong một lối nh́n chan ḥa âm điệu lục bát đă tạo một sắc thái mới mẻ cho Truyện Kiều không những về mặt nghệ thuật dùng từ, đặt câu, tả t́nh, tả cảnh … mà cả việc đưa ra cái nh́n mới về các khái niệm căn bản của nhà Phật.

 

Trên đây, chúng ta vừa đề cập những điểm tương đồng về tư tưởng đạo Phật trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử và Đoạn Trường Tân Thanh của Tố Như. Nếu cả hai có những quan điểm giống nhau một cách tổng quát th́ cả hai cũng sẽ có những điểm dị biệt quan trọng. Tính chất sáng tạo (création) của Nguyễn Du về phương diện tư tưởng cũng chính ở các điểm này. Thực vậy, so với toàn bộ câu chuyện của Thanh Tâm Tài Tử, Tố Như đă làm một công viêc đúng như nhan đề mà tiên sinh đă đặt cho truyện: Đoạn Trường Tân Thanh (Tiếng than khóc mới về nỗi đau ḷng hoặc những tiếng mới về nỗi đau ḷng …). Ảnh hưởng đạo Phật trong “Kim Vân Kiều Truyện” chỉ được lồng vào để câu chuyện được thuận lư, song với Đoạn Trường Tân Thanh, tư tưởng đạo Phật cần được xem như là nền tảng căn bản cho toàn truyện.

 

Trước hết, sự khác biệt dễ nhận ra nhất và chính yếu nhất là phần mở đầu và kết thúc Truyện Kiều đă được Nguyễn Du đưa vào như một lư thuyết. Và tất cả những t́nh tiết trong truyện chng qua chỉ nhằm chứng minh, mô tả thuyết lư mà thôi. Tiếp đến, với Thanh Tâm Tài Tử nguyên lư nhân quả, luân hồi được đề cập rất sơ sài, thiếu sự rơ ràng: Kiều được tác hợp và sống hạnh phúc với Kim Trọng nhờ vào công đức nàng gây tạo được ngay chính kiếp hiện tại, nhng điều tŕnh bày ấy có vẻ để câu chuyện được hợp lư. Trái lại, trong Đoạn Trường Tân Thanh, vị trí của con người đă được thiết định như là nguồn cội của sự tác nghiệp. Đành rằng có định nghiệp khắc khe trói buộc đời Kiều, nhưng vai tṛ nhằm xoay đổi chuyển biến định nghiệp vẫn có thể xảy ra nếu cá nhân thụ nghiệp với ḷng chân thành và thiện ư tác tạo những công đức để đền bù vào những nghiệp chướng oan khiên của ḿnh. Khác với Thanh Tâm Tài Tử, Tố Như tiên sinh đă nhiều lần định rơ giá trị của nỗ lực con người trước định mệnh, nghiệp báo:

 

Sinh rằng: “Giải cấu là duyên,         (c. 419-422)

 Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.

 Ví dù giải kết đến điều,

 Th́ đem vàng đá mà liều với thân”.

 

Cuộc đời với bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu điều chẳng may, nhưng bằng vào tấm ḷng thành thật “vàng đá”, con người bị đọa đày xa cách rồi thế nào cũng có lúc được toại ư măn ḷng. Thêm vào đó, thân phận của Kiều tuy là bèo bọt nhưng nàng đă không để nghiệp lực chi phối hoàn toàn. Đă bao lần nàng nh́n lại ḿnh bằng một sự thức tỉnh cùng tột dù đang nổi trôi trên ḍng sông định mệnh; chính sự thức tỉnh của Kiều được Nguyễn Du thêm thắt vào nhằm đánh giá con người trong cơi trầm luân đó khác hơn nàng Kiều trong Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử:

 

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,                  (c. 1233)

  Giật ḿnh ḿnh lại thương ḿnh xót xa!

 

Hoặc:

 

Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.    (c. 1190)

Tiếc thay trong giá trắng ngần,

Đến phong trần cũng phong trần như ai.

Tẻ vui cũng một kiếp người.

Hng nhan phải giống ở đời măi ru.

Kiếp xưa đă vụng đường tu,

Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.

 

Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh đă dám nh́n thẳng vào số kiếp của ḿnh, biết ḿnh đang bị số kiếp chi phối, đang mang một thân phận muôn ngàn đắng cay:

 

Hoa trôi bèo giạt đă đành                      (c. 219)

  Biết duyên ḿnh, biết phận ḿnh thế thôi.

Hoặc:

Phận sao bạc chẳng vừa thôi,               (c. 1763)

  Khăng khăng buộc măi lấy người hồng nhan!

  Đă đành túc trái tiền oan ...

Hoặc:

Đă sinh ra số long đong,                       (c. 797)

  C̣n ôm lấy kiếp má hồng được sao?

 

Tiếp đến. trong hồi thứ 19 của bản Kiều chữ, tác giả chỉ bàn đến cách thức giải trừ oan nghiệt, túc khiên tiền kiếp một cách sơ sài. Nhân vật Tam Hợp đóng vai tṛ phụ thuộc như một nhà tiên tri thấy rơ cuộc đời của Kiều và công đức của nàng xét kỹ cũng chỉ nhằm cho bố cục câu truyện được suôn sẻ mạch lạc dễ dàng mà thôi. Hoặc giả, Thanh Tâm Tài Tử muốn chứng minh nguyên lư luân hồi và nhân quả th́ sự chứng minh vẫn c̣n rời rạc, thiếu sót:

“Tam Hợp cho rằng: Tất cả người trong thế gian hễ biết tu đức th́ hưởng thanh nhàn, hễ vướng tơ t́nh th́ chịu khổ năo ... chừng nào trải hết đắng cay, th́ mới trả xong oan trái …” [3]

 

Qua đến Nguyễn Du, nhân vật Tam Hợp đóng một vai tṛ quan trọng hơn. Sư Tam Hợp là đại diện để nói lên quan niệm của nhà Phật với những lư lẽ chắc chắn nhằm xác tín về giá trị của cá nhân trước số kiếp của ḿnh. Tương tự như khi Kim Trọng phát biểu: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, một lần nữa, Tố Như đă để nhân vật Tam Hợp tŕnh bày:

 

“Sư rằng: Phúc họa đạo trời.                (c. 2655)

Cỗi nguồn, cũng ở ḷng người mà ra.

Có trời mà cũng tại ta,

Tu là cỗi phúc, t́nh là dây oan” ...

 

“Khi nên trời cũng chiều người”, và Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh đă nỗ lực, đă thức tỉnh, đă gây tạo công đức để xóa nḥa số kiếp tiền oan của ḿnh. Định mệnh, nghiệp lực rồi cũng phải buông tha cho nàng, chiều nàng để nàng được thanh thoát, được hưởng hạnh phúc do chính nghiệp nhân mà Kiều từng gieo rắc. Vai tṛ “con người” có khả năng tác động lên luật nhân quả là một sự xác tín của Nguyễn Du rất phù hợp với lời Đức Phật nhắc nhở: “Hăy tự ḿnh làm ngọn đèn cho chính ḿnh, chớ y tựa một ai khác”. [4]

 

Thêm vào đó, những bản đàn cho chiếc hồ cầm của Kiều đă thay đổi tuần tự trong cuộc đời của nàng từ khi gặp gỡ cho đến khi chia tay rồi sum họp. Nhưng với Tố Như, tất cả hành vi của Kiều dù chỉ ở trong tác động gảy đờn cũng nhằm chứng minh lần nữa vị trí của con người trong ḍng định nghiệp của ḿnh.

 

Với Thanh Tâm Tài Tử, tiên sinh cũng ư thức được việc mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều nhưng hầu như tiên sinh không nhấn mạnh đến tiết điệu của thanh âm cũng như cơi ḷng người gảy những thanh khúc ấy một cách rơ ràng:

 

“…Tùy theo tâm sự ghép nên bản đàn, kư thủy xôn xao ào ạt …” . Mỗi khi đắc ư chàng lại hết sức khen ngợi:

 

“Lạ chưa phổ ấy tay nào?

Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy.

Cam lai hẳn đă đến ngày,

mà cơ khổ đau từ đây hết rồi ... [5]

 

Song với Nguyễn Du. tiếng đàn đă được xác định minh bạch hơn: Khúc Hán Sở, tiếng sắt tiếng vàng chen nhau, Khúc Tư mă phượng cầu, như oán như sầu, trong như tiếng hạc, đục như nước suối, bốn dây như khóc như than, một cung gió tủi mưa sầu, khúc đâu đầm ấm dương ḥa, khúc đâu êm ấm xuân t́nh, Trang sinh, hồ điệp, Thục đế, đỗ quyên... Những h́nh ảnh đó thay đổi tùy theo hoản cảnh biến chuyển. Và Tố Như tiên sinh thấy ngay lư do thay đổi đó chẳng qua là do chính tâm trạng của người chơi:

 

“Rằng: Quen mất nết đi rồi.                     (c. 493)

Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao.

Hoặc:

“…Phổ ấy tay nào?                                (c. 3207)

Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?

Tẻ vui bởi tại ḷng này ...

 

Sau cùng, trong phần kết luận, Nguyễn Du bàn bạc thêm về thuyết định nghiệp (bắt phong trần, phải phong trần) để rồi tiên sinh lại một lần nữa xác định vai tṛ cốt yếu nơi người gây nghiệp:

 

“Ngẫm hay muôn sự tại trời.                 (c. 3241)

……

Đă mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

Thiện căn ở tại ḷng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ...

 

Bây giờ, chúng ta mới thấy tiên sinh cho biết rơ ràng cơi ḷng ấy chính là chữ Tâm. Và đây cũng chính là điểm khác biệt quan trọng nhất giữa bản Kiều chữ và bản Kiều Nôm.

 

Xuyên qua những điểm bên trên. ngoài cái hay cái đẹp nơi lời thơ ư từ hoa lệ và thâm thúy, tư tưởng đao Phật thực sự đă có những đóng góp quan yếu trong việc xây dưng Đoạn Trường Tân Thanh. Thành thử, dù mượn cốt truyện từ “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Tử, nhưng công tŕnh của Tố Như là một công tŕnh tái tạo (reconstruction) từ chất liệu cũ. Tiên sinh đă đưa ra một lối tŕnh bày vấn đề một cách mới mẻ hơn , rơ ràng hơn về những tư tưởng đạo Phật trong Truyện Kiều. Song những tư tưởng này nên được xét đoán rộng răi, phá bỏ các thành kiến cố hữu mới có thể xác định giá trị nghệ thuật của Đoạn Trường Tân Thanh như một công tŕnh sáng tạo. Vả lại, thái độ khiêm nhường, ẩn giấu đằng sau ngôn từ của cổ nhân vẫn thường được các nhà nho sử dụng. Khổng Tử cũng từng tự nhận ḿnh chỉ là kẻ: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (Thuật lại chớ không sáng tác. tin tưởng vào những điều xưa cổ - Luận ngữ - Thuật nhi VII). Quan miệm đó được Nguyễn Du tiên sinh khai thác và đằng sau những ư từ rút từ thơ Đường của Lư Thương Ẩn, Thôi Hộ v.v... đă ẩn tàng biết bao tâm sự, biết bao quan niệm chất chồng của tiên sinh. Ngay khi đặt tên cho bản Kiều Nôm “Đoạn Trường Tân Thanh” thời ư nghĩa của chữ “Tân Thanh” (tiếng mới) cũng mặc nhiên cho thấy sự khác biệt chính yếu giữa hai bản Kiều Nôm và Kiều chữ.

 

Cho nên, tư tưởng đạo Phật giữa hai bản Kiều chữ và Kiều Nôm có thể nói là có sự khác biệt rất nhiều. Một bên được đề cập một cách tổng quát, đơn giản và nhắm vào việc xếp đặt bố cục câu chuyện cho được hợp lư, hợp t́nh; một bên đề cập một cách chính xác, minh bạch và lại nhằm chứng minh cho một thuyết lư mà tác giả đă có chủ ư từ trước. Nếu phủ nhận những tư tưởng của đạo Phật hoặc coi nhẹ vai tṛ của nó, có lẽ Đoạn Trường Tân Thanh chỉ là một truyện thơ đạt đến tŕnh độ điêu luyện về nghệ thuật sử dụng từ ngữ, nghệ thuật tả cảnh, tả t́nh, tả nhân vật v.v... như nhiều người đă t́m ṭi, đă chỉ rơ. Vậy cái ǵ sâu lắng, cuốn hút trong Truyện Kiều đằng sau những lời thơ điêu luyện, hoa mỹ ấy? Phải chăng là tŕnh độ nghệ thuật làm thơ của Tố Như đă đạt đến cái Hay và cái Đẹp của Nghệ Thuật?

 

Mặt khác, h́nh ảnh một Thúy Kiều biểu lộ sự an lạc qua tiếng đàn cuối cùng để “Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa!” (c. 3124) là h́nh ảnh của một con người đă cất được biết bao gánh nặng của hệ lụy nhân sinh. Đó là một con người đang tiến đến sự an lạc và giải thoát. V́ thế, khi Thúy Kiều hay Nguyễn Du ở đây khẳng định:

 

“Chữ trinh c̣n một chút này.            (c.3162) 

Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!”

 

Hai câu này lại có một ư nghĩa khác chứ không nên hiểu hạn hẹp trong việc “chăn gối”, v́: “Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường” (c.31 16). Trinh là sự trong trắng, trinh nguyên của một tâm hồn đă b́nh yên, đă an lạc và cao khiết như Kiều đă nói:

“Thân tàn gạn đục khơi trong”           (c.3181)
                                                          

“Khơi trong” là làm cho cuộc đời ba ch́m bảy nổi trong chốn đoạn trường của ḿnh được tốt đẹp hơn . “Khơi trong” là đạt đến sự trinh trắng của tâm hồn, của cơi ḷng, của cái Tâm. Và Nguyễn Du đă “khơi trong” để cho câu chuyện về nàng Vương Thúy Kiều trong dân gian Trung Hoa và “Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân có được Chất Thơ, đạt đến cái Hay, cái Đẹp và cái Mới trong Đoạn Trường Tân Thanh mà chúng ta có thể tóm tắt:

 

- Một là Nghệ thuật sử dụng từ ngữ dưới h́nh thức thơ lục bát của dân tộc rất nhẹ nhàng và điêu luyện.

 

-  Hai là bằng các h́nh thức nghệ thuật khác nhau, Nguyễn Du với Đoạn Trường Tân Thanh đă tŕnh bày một nghệ thuật sống để chúng ta suy gẫm và học hỏi, thông qua con đường vượt lên số phận khắt khe và đạt đến an b́nh của Thúy Kiều.


 

[1] Thanh Tâm Tài Tử, sđd, tr. 30.

[2] Thanh Tâm Tài Tử, sđd, tr. 60

[3] Thanh Tâm Tài Tử, sđd, tr. 407, 408, 435, 436. Q.2.

[4] Thích Minh Châu, Trường Bộ Kinh, Tập III, Viện Đại học Vạn Hạnh xb, 1972, tr. V.

[5] Thanh Tâm Tài Tử, sđd, tr. 407, 408, 435, 436. Q.2.

 

 

 

Đọc Kỳ 7

 

 

 



D
ương Anh Sơn
 Giáo Sư Triết học

Trung học Ninh Ḥa

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com