TIẾT 3: TƯ TƯỞNG ĐẠO PHẬT
TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN VÀ TRONG ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Tư tưởng đạo Phật trong “Kim Vân
Kiều Truyện” và trong “Đoạn Trường Tân Thanh” có sự giống nhau
và khác biệt nào? Đây là một vấn đề tưởng cũng cần được t́m
hiểu hầu có thể nhận ra đâu là những nét chấm phá mới và độc
đáo của Tố Như trong Truyện Kiều. Thực vậy, nh́n một cách tổng
quát, cả hai cuốn truyện cùng diễn một “tuồng tích” này đều có
những điểm tương đồng ít nhiều chịu ảnh hưởng tư tưởng nhà
Phật. Trước hết, cả hai đều khởi đầu bằng thuyết lư “Hồng nhan
bạc mệnh” như một thứ định luật cố hữu theo niềm tin của người
Đông phương và đặc biệt là Trung Hoa. Nhưng dưới cách nh́n của
nhà Phật, những kẻ tài sắc thường bị mệnh bạc, tạo hóa ghen
ghét chẳng qua v́ họ đă tạo nghiệp trong kiếp trước; kiếp này
sinh ra có sắc có tài, nhưng tài sắc ấy chỉ làm cho họ khổ lụy
như là hậu quả của sự gây nhân từ kiếp trước. Nhân vật Đạm
Tiên có thể xem là một bằng chứng cho thuyết lư ấy và là đầu
mối, là gương soi cho Thúy Kiều, một người cũng có tài sắc:
“Chắc v́ hoàn cảnh không may dun
dủi vào nơi bể lửa vùi dập ngày xuân. Vậy th́ thuyền trước
thuyền sau, biết đâu chị em ḿnh lại chẳng là kiếp sau của
người đó?”
Và với Tố Như, tiên sinh vẫn giữ
lại ư tưởng này nhưng triển khai rộng hơn nhắm đến thân phận
của đàn bà nói chung, trong đó có những kẻ hồng nhan:
“Đau đớn thay phận đàn
bà (c. 83)
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời
chung.
Phũ phàng chi bấy hóa công,
Ngày xanh ṃn mỏi má hồng phôi
pha”.
Và:
Rằng: “Hồng nhan tự ngh́n xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.
Bên cạnh đó, sự gặp gỡ giữa Đạm
Tiên và Kiều không phải là sự ngẫu nhiên, vô cớ nhưng đă được
sắp đặt bởi những chuỗi nhân duyên giữa hai người từ quá khứ
theo một định luật thông thường về duyên khởi của nhà Phật.
Cái này có nên cái kia có.
Cái này diệt nên cái kia diệt.
Cái này sinh nên cái kia sinh.
Cũng vậy, Đạm Tiên có thể là
hiện thân, là biểu tượng của đời Thúy Kiều, nhưng cũng có thể
đều có sự tạo nghiệp giống nhau do bởi cả hai đều là kẻ tài
sắc và những kẻ hồng nhan có tài sắc nói chung đều thường đón
nhận một quả kiếp bạc bẽo. Đó phải chăng là một thứ cộng
nghiệp áp dụng chung cho những người hồng nhan này? Do
đó,Thanh Tâm Tài Tử đă đặt Kiều vào những suy nghĩ:
“Kiều nói: Hôm nay chị đă có
ḷng chiếu cố,
đôi ta ắt có tiền duyên
...”
(Sđd. tr. 46)
Một cách tương hợp, Nguyễn Du
cũng chấp nhận như thế, nhưng thay v́ để Kiều phát biểu, tiên
sinh lại dành cho Đạm Tiên biểu tượng cho bóng dáng của Kiều,
cũng như bởi một thứ nhân duyên ngẫu nhĩ từ kiếp nào:
Thưa rằng: “Thanh khí xưa
nay, (c. 193)
……
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
(c. 201)
Cũng người một hội một thuyền
đâu xa ...”
Ngoài ra, trong cả hai cuốn
truyện này đều nhấn mạnh số kiếp và định nghiệp đời Kiều. Định
nghiệp có lẽ bắt nguồn từ nghiệp nhân kiếp trước nhưng bây
giờ trước mắt Kiều cái định nghiệp ấy như một thứ ám ảnh đeo
đuổi và không thể chối từ dù bằng cái chết của ḿnh.
Trong Kim Vân Kiều Truyện, Thanh
Tâm Tài Tử qua lời Đạm Tiên đă nhắc nhở Thúy Kiều:
“Huống chi trong lúc ḿnh vừa
chợp mắt, rơ ràng Đạm Tiên đă bảo: “Món nợ oan nghiệt chưa
trang trải xong, vội thoát cơi trần sao được? Như vậy mà cứ
liều chết, chẳng những nợ của kiếp trước chưa hoàn, mà nợ oan
nghiệt kiếp này c̣n chồng chất lên nữa, th́ đến kiếp nào mới
trả xong?”.
Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du,
ông vẫn giữ nguyên ư kiến của Thanh Tâm Tài Tử về định nghiệp,
nhưng lại khoác vào đó một nguyên nhân tối thượng rất gần với
tâm hồn Việt Nam là ông Trời. Song ông Trời ở đây có lẽ chỉ
nên hiểu như một biểu tượng của màn lưới bao trùm định nghiệp
oan tiền nghiệp chướng ấy:
“Kể
rằng: “Nhân quả dở dang, (c. 995)
Để toan trốn nợ đoạn tràng được
sao!
Số c̣n nặng kiếp má đào,
Người dù muốn quyết trời nào đă
cho!”
Hoặc:
“Vả trong thần mộng mấy lời,
(c. l017)
Túc nhân âu cũng có trời ở
trong.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp
sau!”
Nói khác đi, ông trời ở đây có
thể tạm hiểu là một quyền năng của đấng hóa công trong quan
niệm “Thiên mệnh” của Nho giáo, nhưng với Nguyễn Du, ông trời
chỉ là một cách nói nôm na, b́nh dân của nghiệp nhân nghiệp
quả mà thôi. Và đấy cũng chính là điểm khác biệt từ sự tương
đồng giữa Kim Vân Kiều Truyện và Đoạn Trường Tân Thanh. Tố Như
tiên sinh trong một lối nh́n chan ḥa âm điệu lục bát đă tạo
một sắc thái mới mẻ cho Truyện Kiều không những về mặt nghệ
thuật dùng từ, đặt câu, tả t́nh, tả cảnh … mà cả việc đưa ra
cái nh́n mới về các khái niệm căn bản
của nhà Phật.
Trên đây, chúng ta vừa đề cập
những điểm tương đồng về tư tưởng đạo Phật trong Kim Vân Kiều
Truyện của Thanh Tâm Tài Tử và Đoạn Trường Tân Thanh của Tố
Như. Nếu cả hai có những quan điểm giống nhau một cách tổng
quát th́ cả hai cũng sẽ có những điểm dị biệt quan trọng.
Tính chất sáng tạo (création) của Nguyễn Du về phương diện tư
tưởng cũng chính ở các điểm này. Thực vậy, so với toàn bộ câu
chuyện của Thanh Tâm Tài Tử, Tố Như đă làm một công viêc đúng
như nhan đề mà tiên sinh đă đặt cho truyện: Đoạn Trường Tân
Thanh (Tiếng than khóc mới về nỗi đau ḷng hoặc những tiếng
mới về nỗi đau ḷng …). Ảnh hưởng đạo Phật trong “Kim Vân Kiều
Truyện” chỉ được lồng vào để câu chuyện được thuận lư, song
với Đoạn Trường Tân
Thanh, tư tưởng đạo Phật cần được xem như là nền tảng căn bản
cho toàn truyện.
Trước hết, sự khác biệt dễ nhận
ra nhất và chính yếu nhất là phần mở đầu và kết thúc Truyện
Kiều đă được Nguyễn Du đưa vào như một lư thuyết. Và tất cả
những t́nh tiết trong truyện chẳng qua
chỉ nhằm chứng minh, mô tả thuyết lư mà thôi. Tiếp đến, với
Thanh Tâm Tài Tử nguyên lư nhân quả, luân hồi được đề cập rất
sơ sài, thiếu sự rơ ràng: Kiều được tác hợp và sống hạnh phúc
với Kim Trọng nhờ vào công đức nàng gây tạo được ngay chính
kiếp hiện tại, những điều tŕnh bày ấy
có vẻ để câu chuyện được hợp lư. Trái lại, trong Đoạn Trường
Tân Thanh, vị trí của con người đă được thiết định như là
nguồn cội của sự tác nghiệp. Đành rằng có định nghiệp khắc khe
trói buộc đời Kiều, nhưng vai tṛ nhằm xoay đổi chuyển biến
định nghiệp vẫn có thể xảy ra nếu cá nhân thụ nghiệp với ḷng
chân thành và thiện ư tác tạo những công đức để đền bù vào
những nghiệp chướng oan khiên của ḿnh. Khác với Thanh Tâm Tài
Tử, Tố Như tiên sinh đă nhiều lần định rơ giá trị của nỗ lực
con người trước định mệnh, nghiệp báo:
“Sinh
rằng: “Giải cấu là duyên, (c. 419-422)
Xưa nay nhân định thắng
thiên cũng nhiều.
Ví dù giải kết đến điều,
Th́ đem vàng đá mà liều với
thân”.
Cuộc đời với bao nhiêu đổi thay,
bao nhiêu điều chẳng may, nhưng bằng vào tấm ḷng thành thật
“vàng đá”, con người bị đọa đày xa cách rồi thế nào cũng có
lúc được toại ư măn ḷng. Thêm vào đó, thân phận của Kiều tuy
là bèo bọt nhưng nàng đă không để nghiệp lực chi phối hoàn
toàn. Đă bao lần nàng nh́n lại ḿnh bằng một sự thức tỉnh cùng
tột dù đang nổi trôi trên ḍng sông định mệnh; chính sự thức
tỉnh của Kiều được Nguyễn Du thêm thắt vào nhằm đánh giá con
người trong cơi trầm luân đó khác hơn nàng Kiều trong Kim Vân
Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Tử:
“Khi
tỉnh rượu lúc tàn canh, (c. 1233)
Giật ḿnh ḿnh lại thương ḿnh
xót xa!”
Hoặc:
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho
thân. (c. 1190)
Tiếc thay trong giá trắng ngần,
Đến phong trần cũng phong trần
như ai.
Tẻ vui cũng một kiếp người.
Hồng nhan
phải giống ở đời măi ru.
Kiếp xưa đă vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới
xuôi.
Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh
đă dám nh́n thẳng vào số kiếp của ḿnh, biết ḿnh đang bị số
kiếp chi phối, đang mang một thân phận
muôn ngàn đắng cay:
“Hoa
trôi bèo giạt đă đành (c. 219)
Biết duyên ḿnh, biết phận ḿnh
thế thôi.”
Hoặc:
“Phận
sao bạc chẳng vừa thôi, (c. 1763)
Khăng khăng buộc măi lấy người
hồng nhan!
Đă đành túc trái tiền oan ...”
Hoặc:
“Đă
sinh ra số long đong, (c. 797)
C̣n ôm lấy kiếp má hồng được
sao?”
Tiếp đến. trong hồi thứ 19 của
bản Kiều chữ, tác giả chỉ bàn đến cách thức giải trừ oan
nghiệt, túc khiên tiền kiếp một cách sơ sài. Nhân vật Tam Hợp
đóng vai tṛ phụ thuộc như một nhà tiên tri thấy rơ cuộc đời
của Kiều và công đức của nàng xét kỹ cũng chỉ nhằm cho bố cục
câu truyện được suôn sẻ mạch lạc dễ dàng mà thôi. Hoặc giả,
Thanh Tâm Tài Tử muốn chứng minh nguyên lư luân hồi và nhân
quả th́ sự chứng minh vẫn c̣n rời rạc, thiếu sót:
“Tam Hợp cho rằng: Tất
cả người trong thế gian hễ biết tu đức th́ hưởng thanh nhàn,
hễ vướng tơ t́nh th́ chịu khổ năo ... chừng nào trải
hết đắng cay, th́ mới trả xong oan trái …”
Qua đến Nguyễn Du, nhân vật Tam
Hợp đóng một vai tṛ quan trọng hơn. Sư Tam Hợp là đại diện để
nói lên quan niệm của nhà Phật với những lư lẽ chắc chắn nhằm
xác tín về giá trị của cá nhân trước số kiếp của ḿnh. Tương
tự như khi Kim Trọng phát biểu: “Xưa nay nhân định thắng thiên
cũng nhiều”, một lần nữa, Tố Như đă để nhân vật Tam Hợp tŕnh
bày:
“Sư rằng: Phúc họa đạo trời.
(c. 2655)
Cỗi nguồn,
cũng ở
ḷng người mà ra.
Có trời mà cũng
tại ta,
Tu là cỗi phúc, t́nh là dây oan”
...
“Khi nên trời cũng chiều người”,
và Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh đă nỗ lực, đă thức
tỉnh, đă gây tạo công đức để xóa nḥa số kiếp tiền oan của
ḿnh. Định mệnh, nghiệp lực rồi cũng phải buông tha cho nàng,
chiều nàng để nàng được thanh thoát, được hưởng hạnh phúc do
chính nghiệp nhân mà Kiều từng gieo rắc. Vai tṛ “con người”
có khả năng tác động lên luật nhân quả là một sự xác tín của
Nguyễn Du rất phù hợp với lời Đức Phật nhắc nhở: “Hăy tự ḿnh
làm ngọn đèn cho chính ḿnh, chớ y tựa một ai khác”.
Thêm vào đó, những bản đàn cho
chiếc hồ cầm của Kiều đă thay đổi tuần tự trong cuộc đời của
nàng từ khi gặp gỡ cho đến khi chia tay rồi sum họp. Nhưng với
Tố Như, tất cả hành vi của Kiều dù chỉ ở trong tác động gảy
đờn cũng nhằm chứng minh lần nữa vị trí của con người trong
ḍng định nghiệp của ḿnh.
Với Thanh Tâm Tài Tử, tiên sinh
cũng ư thức được việc mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều nhưng hầu
như tiên sinh không nhấn mạnh đến tiết điệu của thanh âm cũng
như cơi ḷng người gảy những thanh khúc ấy một cách rơ ràng:
“…Tùy theo tâm sự ghép nên bản
đàn, kư thủy xôn xao ào ạt …” . Mỗi khi đắc ư chàng lại hết
sức khen ngợi:
“Lạ chưa phổ ấy tay nào?
Xưa sao sầu thảm nay sao vui
vầy.
Cam lai hẳn đă đến ngày,
mà cơ khổ đau từ đây hết rồi
...”
Song với Nguyễn Du. tiếng đàn đă
được xác định minh bạch hơn: Khúc Hán Sở, tiếng sắt tiếng vàng
chen nhau, Khúc Tư mă phượng cầu, như oán như sầu, trong như
tiếng hạc, đục như nước suối, bốn dây như khóc như than, một
cung gió tủi mưa sầu, khúc đâu đầm ấm dương ḥa, khúc đâu êm
ấm xuân t́nh, Trang sinh, hồ điệp, Thục đế, đỗ quyên... Những
h́nh ảnh đó thay đổi tùy theo hoản cảnh biến chuyển. Và Tố Như
tiên sinh thấy ngay lư do thay đổi đó chẳng qua là do chính
tâm trạng của người chơi:
“Rằng: Quen mất nết đi rồi.
(c. 493)
Tẻ vui thôi cũng tính trời
biết sao.
Hoặc:
“…Phổ ấy tay nào?
(c. 3207)
Xưa sao sầu thảm nay sao vui
vầy?
Tẻ vui bởi tại ḷng này ...
Sau cùng, trong phần kết luận,
Nguyễn Du bàn bạc thêm về thuyết định nghiệp (bắt phong trần,
phải phong trần) để rồi tiên sinh lại một lần nữa xác định vai
tṛ cốt yếu nơi người gây nghiệp:
“Ngẫm hay muôn sự tại
trời. (c. 3241)
……
Đă mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa
Thiện căn ở tại ḷng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
...
Bây giờ, chúng ta mới thấy tiên
sinh cho biết rơ ràng cơi ḷng ấy chính là chữ Tâm. Và đây
cũng chính là điểm khác biệt quan trọng nhất giữa bản
Kiều chữ và bản Kiều Nôm.
Xuyên qua những điểm bên trên.
ngoài cái hay cái đẹp nơi lời thơ ư từ hoa lệ và
thâm thúy, tư tưởng đao Phật thực sự đă có những
đóng góp quan yếu trong việc xây dưng Đoạn Trường
Tân Thanh. Thành thử, dù mượn cốt truyện từ “Kim Vân
Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Tử, nhưng công tŕnh của Tố Như
là một công tŕnh tái tạo (reconstruction) từ chất liệu cũ.
Tiên sinh đă đưa ra một lối tŕnh bày vấn đề một cách mới
mẻ hơn , rơ ràng hơn về những tư tưởng đạo Phật trong Truyện
Kiều. Song những tư tưởng này nên được xét đoán rộng răi, phá
bỏ các thành kiến cố hữu mới có thể xác định giá trị nghệ
thuật của Đoạn Trường Tân Thanh như một công tŕnh sáng tạo.
Vả lại, thái độ khiêm nhường, ẩn giấu đằng sau ngôn từ của cổ
nhân vẫn thường được các nhà nho sử dụng. Khổng Tử cũng từng
tự nhận ḿnh chỉ là kẻ: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”
(Thuật lại chớ không sáng tác. tin tưởng vào những điều xưa cổ
- Luận ngữ - Thuật nhi VII). Quan miệm đó được Nguyễn Du tiên
sinh khai thác và đằng sau những ư từ rút từ thơ Đường của Lư
Thương Ẩn, Thôi Hộ v.v... đă ẩn tàng biết bao tâm sự, biết bao
quan niệm chất chồng của tiên sinh. Ngay khi đặt tên cho bản
Kiều Nôm “Đoạn Trường Tân Thanh” thời ư nghĩa của chữ “Tân
Thanh” (tiếng mới) cũng mặc nhiên cho thấy sự khác biệt chính
yếu giữa hai bản Kiều Nôm và Kiều chữ.
Cho nên, tư tưởng đạo Phật giữa
hai bản Kiều chữ và Kiều Nôm có thể nói là có sự khác biệt rất
nhiều. Một bên được đề cập một cách tổng quát, đơn giản và
nhắm vào việc xếp đặt bố cục câu chuyện cho được hợp lư, hợp
t́nh; một bên đề cập một cách chính xác, minh bạch và lại nhằm
chứng minh cho một thuyết lư mà tác giả đă có chủ ư
từ trước. Nếu phủ nhận những tư tưởng của đạo
Phật hoặc coi nhẹ vai tṛ của nó, có lẽ Đoạn Trường Tân
Thanh chỉ là một truyện thơ đạt đến tŕnh độ điêu luyện về
nghệ thuật sử dụng từ ngữ, nghệ thuật tả cảnh, tả t́nh, tả
nhân vật v.v... như nhiều người đă t́m ṭi, đă chỉ rơ.
Vậy cái ǵ sâu lắng, cuốn hút trong Truyện Kiều đằng sau những
lời thơ điêu luyện, hoa mỹ ấy? Phải chăng là tŕnh độ nghệ
thuật làm thơ của Tố Như đă đạt đến cái Hay và cái Đẹp của
Nghệ Thuật?
Mặt khác, h́nh ảnh một Thúy Kiều
biểu lộ sự an lạc qua tiếng đàn cuối cùng để “Cuốn dây từ đấy
về sau cũng chừa!” (c. 3124) là h́nh ảnh của một con người đă
cất được biết bao gánh nặng của hệ lụy nhân sinh. Đó là một
con người đang tiến đến sự an lạc và giải thoát. V́ thế, khi
Thúy Kiều hay Nguyễn Du ở đây khẳng định:
“Chữ trinh c̣n một chút này.
(c.3162)
Chẳng cầm cho vững lại giày cho
tan!”
Hai câu này lại có một ư nghĩa
khác chứ không nên hiểu hạn hẹp trong việc “chăn gối”, v́:
“Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường” (c.31 16). Trinh là sự
trong trắng, trinh nguyên của một tâm hồn đă b́nh yên, đă an
lạc và cao khiết như Kiều đă nói:
“Thân tàn gạn đục khơi trong”
(c.3181)
“Khơi trong” là làm cho cuộc đời
ba ch́m bảy nổi trong chốn đoạn trường của ḿnh được tốt đẹp
hơn . “Khơi trong” là đạt đến sự trinh trắng của tâm hồn, của
cơi ḷng, của cái Tâm. Và Nguyễn Du đă “khơi trong” để cho câu
chuyện về nàng Vương Thúy Kiều trong dân gian Trung Hoa và
“Kim Vân Kiều Truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân có được Chất Thơ,
đạt đến cái Hay, cái Đẹp và cái Mới trong Đoạn Trường Tân
Thanh mà chúng ta có thể tóm tắt:
- Một là Nghệ thuật sử dụng
từ ngữ dưới h́nh thức thơ lục bát của dân tộc rất nhẹ
nhàng và điêu luyện.
- Hai là bằng các h́nh thức
nghệ thuật khác nhau, Nguyễn Du với Đoạn Trường Tân Thanh đă
tŕnh bày một nghệ thuật sống để chúng ta suy
gẫm và học hỏi, thông qua con đường vượt lên số phận khắt khe
và đạt đến an b́nh của Thúy Kiều.
Đọc Kỳ 7