Lịch sử văn chương nhân loại đă cho thấy những tác phẩm được
người đời hâm mộ hơn cả là những tác phẩm chứa đựng một sức
khơi dậy và hấp dẫn sâu xa nơi tâm hồn độc giả. Thật vậy,
ngoài cái hay cái đẹp mà lời văn hoặc ư thơ đem đến, cái c̣n
lại một cách bền bỉ nơi người đọc chính là những ư nghĩ, những
tư tưởng đă có một cái ǵ thân thiết và gần gũi với tâm thức
của họ. Giữa văn chương và đời sống có mối liên lạc bắt nguồn
từ nhận thức của con người trước cuộc đời. Và nhà thơ, nhà văn
không phải chỉ là người chú giải cuộc đời hoặc ghi lại theo sự
lĩnh hội về một vài điều giao ngộ nào đó giữa trời và đất,
giữa con người và thiên nhiên. Công việc này sẽ không mang một
ư nghĩa hay một giá trị đích thực nếu chỉ nhắm đến sự mô tả
hoặc ghi nhận cạn cợt trước thực tại vô cùng sinh động và
phong phú. Khi sáng tác, sự phản ảnh trung thực với những điều
ḿnh đă sống, đă khắc khoải và trực tiếp với ư nghĩa từng cảm
nghiệm không ngừng sẽ là những chất liệu quan trọng để cấu
thành và làm cho tác phẩm bất hủ. Cho nên, có thể nói rằng nền
tảng của các áng văn chương được nhận thức từ đời sống chính
là triết lư hàm súc bên trong. Người ta chỉ biết đến
Sophocles, Homère, Shakespeare, Holderlin, Nguyễn Du,
Dostoievsky, Tagore, Albert Camus, André Gide, Hermann Hesse,
Hemingway, Nikos Kazanakis… vẫn c̣n măi với thời gian, đằng
sau những tư tưởng chất chứa nơi tác phẩm của họ. Thành thử,
vai tṛ triết lư và tư tưởng lúc nào cũng cần thiết để tác
phẩm tồn tại liên tục trong lịch sử văn chương, nó có giá trị
như một thứ linh hồn tiềm tàng hầu làm cho tác phẩm có một sức
sống và khơi dậy những suy nghĩ nơi người đọc.
Trên chiều hướng ấy, nhà thơ – nhất là nhà thơ Đông phương, đă
sử dụng thi ca như là một nghệ thuật cao cả để phô diễn tâm tư
của ḿnh. Với họ, thơ là tinh hoa của đời sống, được nẩy sinh
từ cuộc đời nên có một địa vị đặc biệt trong lănh vực văn
chương. Các cổ thi Ấn Độ và Trung Hoa như: Veda, Upanisad,
Ramayana, Mahabrâta, Kinh Thi,… đều dùng ngôn ngữ của thi ca
để diễn đạt. Ngoài ra c̣n có thể nói thơ đă thâm nhập vào đời
sống của người phương Đông như là lẽ đạo. Thơ đồng nghĩa với
đạo, hiểu thơ và đạo là cái nh́n thông suốt của lẽ sống. V́
thế, ở một mức độ nào đó, thơ, đạo và lẽ sống là một không thể
chia ĺa nhau. Thi ca là nguồn suối của t́nh hơn là của lư nên
nó dễ dàng phả vào tâm hồn người hơn bất kỳ nghệ thuật nào
khác. Ở giữa đó, bầu trời của thi ca không những chỉ nhằm khai
mở để từ đó con người có thể tham dự vào đời sống của vũ trụ,
của thiên nhiên. Ngôi giáo đường mà con người cần đến cầu
nguyện không hạn hẹp trong các khối nhà trơ trọi thiếu sinh
khí, nhưng chính là toàn thể vạn vật thiên nhiên chung quanh.
Cảm thông và tan ḥa vào thế giới rộng lớn như thế, thi ca đ̣i
hỏi một nỗ lực tham dự trọn vẹn chứ không phải nhằm mô tả hoặc
nói về những mảnh vụn rải rác bắt gặp giữa đường đi. Nhưng bầu
trời của thi ca cũng là bầu trời của đạo. Trên con đường sáng
tạo, có lúc người ta cũng nhận thấy không thể tŕnh bày và
giải thích hơn được về sự cảm nhận của ḿnh mà để tự nó mang
được một huyền nghĩa nào đó. Đạo vốn không có phân chia và
không thể xác định rơ được. Đến với ḷng tư dục và niệm phân
chia có lẽ sẽ không bao giờ nhận chân được huyền nghĩa của
Đạo. Lăo Tử đă từng khuyên chúng ta: “Đạo khả đạo phi thường
đạo, danh khả danh phi thường danh…” hoặc “Thường vô dục, dĩ
quan kỳ diệu;
thường hữu dục, dĩ quan kỳ kiếu
(道可道非常道,名可名非常名)
hoặc (常無欲以觀其妙,
有欲以觀其徼 - 老子
- 道德經
Lăo
Tử, Đạo Đức Kinh, chương I ) - Đạo có thể là Đạo,
không phải là Thường. Danh có thể là Danh nhưng không phải là
danh Thường. Không thường có sự ham muốn mới xem thấy được chỗ
huyền diệu. Thường có sự ham muốn, chỉ thấy được chỗ ngăn cách
chia ĺa. (Kiếu là chỗ chỉ ranh giới, nghĩa khác là ḍ xét).
Trước thiên nhiên vạn vật, nhà thơ sẽ dùng ngôn ngữ để diễn tả
sự cảm nhận hoặc những rung động của ḿnh. Nhưng rồi ngôn ngữ
cũng phải bặt tiếng để huyền nghĩa xuất hiện trong dáng vẻ hết
sức vi tế của nó. Chúng ta đă thấy Heidegger cũng nhiều lần
nhận ra ư nghĩa của các huyền nghĩa trong ngôn từ. Giữa ngôn
từ và tính thể (Phusis, Polemos, Logos, Schein…) luôn luôn có
một tương quan mật thiết với nhau
và không tách biệt nhau được. Tính thể qua ngôn ngữ của thi ca
thường nằm ở tư thế nước đôi giữa sự “khai mở” và sự “ẩn
khuất” hoặc giữa sự “tiết lộ” và “bí mật”, tương tự ư niệm
“hữu danh” và “vô danh” đan lồng nhau trong nhiều chương Đạo
Đức Kinh của Lăo Tử. Và cặp tương sinh ấy chính là căn nguyên
của chân tính (Vérité) và của lẽ đạo. Chúng ta cũng thấy
Heidegger đă xác định: “Vấn đề chân tính có thể đạt được trọng
tâm nguyên thủy của nó là khi một cách tiên quyết, người ta đă
nh́n được tính thể đầy đặn của chân tính và cái nh́n ấy giúp
bao hàm được suy tư về “vô chân” (non-vérité) trong sự khai
quan của chân tính”3.
Nói
khác hơn, chân tính (A-letheia) chỉ có thể xuất hiện sau khi
đă trải qua (Er-eignis-avênement), kinh qua nghiệm lại kể cả
đối cực của nó là vô chân nữa. Đồng một ư nghĩa như thế, đạo
không thể tách rời đối với đời sống nhưng được tạo dựng từ đời
sống xét như một kinh nghiệm. Thành thử, thoạt nh́n tưởng
chừng đạo là một cái ǵ sâu xa, tuyệt đối và vô hạn, nhưng nếu
có “trải qua” đạo sẽ là những ǵ thật gần gũi, thật tương đối
và hữu hạn. Song trong sự gần gũi ấy, tương đối lại hàm chứa
tuyệt đối và vô hạn. Điều mà nhà thơ tượng trưng qua các danh
từ chỉ là bề mặt che giấu một chân trời sinh động đằng sau
những ngôn từ. Và nhà thơ khi đi t́m ư nghĩa của cuộc đời tức
là lên đường truy t́m lẽ sống. Lẽ sống của một kiếp người, của
đời người nằm nơi đâu? Để rồi cuối cùng khi quay về với cơi
ḷng ḿnh, trở về với hồn nhiên, người ta mới nhận ra được ư
nghĩa của đời sống. Mặt khác, lẽ sống chỉ có thể nhận ra trong
từng bước đi, trong từng lần khai mở được rút tỉa chắt lọc từ
cuộc đời nơi chính mỗi cá nhân đă chứng nghiệm được ư nghĩa
hoặc lẽ sống ấy.
Ngoài ra, lẽ sống cũng nằm trong sự ḥa hợp giữa con người với
cuộc đời, giữa con người với thiên nhiên vũ trụ. Sống tức là
phải chấp nhận giới hạn của bản tính của chính ḿnh, chấp nhận
trật tự sẵn có nơi ḿnh và của thiên nhiên, chấp nhận hành
động và sự đụng chạm với tha nhân và vạn vật bao quanh. Cứ mỗi
lần va chạm như thế, con người mới thâm nhập được lẽ sống,
thấu rơ lẽ đạo. Và thi ca chỉ là phương tiện để nói lên sự cảm
nghiệm đó mà thôi. Thành thử trong thơ có đạo, trong đạo có sự
sống. Thơ chất chứa ư nghĩa đời sống, hàm ngụ huyền nghĩa của
đạo nên không phải là một thứ phương tiện tầm thường. Do đó,
công việc khảo cứu hoặc phân tách phê b́nh thi ca đôi khi chỉ
dừng bước trên b́nh diện chữ nghĩa với lời hay ư đẹp, với
những mâu thuẫn bắt gặp, với thành kiến sẵn có sẽ không bao
giờ nhận chân được lẽ thơ. Vả lại, thơ vốn đ̣i hỏi người đọc
một cái nh́n nhất quán nên không thể dừng lại ở bất cứ một
trạm nào cả. Qua Lời để rơ Ư, dùng Ư để đạt Tâm và qua Tâm để
bước vào Lẽ Đạo theo một tiến tŕnh biện chứng, vẫn là cách
thế và phương tiện để đến với thi ca đă được nhiều người nh́n
nhận là có giá trị nghệ thuật cao.
Cho
nên, đọc Đoạn Trường Tân Thanh (斷脹新聲)
của Nguyễn Du (阮攸),
chúng ta không thể ngắt đoạn hoặc tách rời những mảnh vụn lẻ
tẻ hầu qui kết cho tác giả những tâm trạng hay những quan niệm
theo khuôn thước chật hẹp. Nếu thơ là lẽ đạo th́ khi đọc
Truyện Kiều với khuôn thước luân lư, khuôn thước của xă hội,
khuôn thước của Nho giáo và ngay cả khuôn thước của nhà Phật
sẽ c̣n rất nhiều sự thiếu sót trước một tác phẩm đă đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật và tư tưởng.
Thơ
vốn không trụ chấp vào bất cứ một h́nh tướng nào gặp gỡ giữa
đường đi. Dùng nơm để bắt cá, được cá cần quên nơm. Và cũng
thế, dùng phương tiện hay khuôn thước nào đó để đọc Truyện
Kiều cốt là bắt một nhịp cầu tiếp nối hầu có thể tới bến đạo
mà tác giả muốn trao truyền. Nếu tới được bến th́ tất cả khuôn
thước, phương tiện nào có nghĩa ǵ đâu trước một vùng đất mới
mẻ dọc ngang thong thả.
Từ
trước đến nay, rất nhiều người bàn luận Truyện Kiều dưới mọi
khía cạnh và dưới những cái nh́n khác nhau. Hoặc như Ngô Đức
Kế, Huỳnh Thúc Kháng… với cái nh́n khe khắt của luân lư. Hoặc
như Nguyễn Tường Tam, Phạm Quỳnh, Vũ Đ́nh Long… đă không tiếc
lời ca tụng Truyện Kiều như là một quốc thư. Hoặc đả phá Kiều
theo quan niệm duy vật như Nguyễn Bách Khoa. Hoặc gán ghép cho
Nguyễn Du tâm sự hoài Lê như Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm,
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ… và ngày nay ảnh hưởng tư trào hiện
sinh, người ta đă đi sâu về thân phận nàng Kiều như Trần Bích
Lan, Lê Tuyên… Nói chung, bao nhiêu nhà phê b́nh, nghiên cứu
là bấy nhiêu cái nh́n về Truyện Kiều và Nguyễn Du. Tuy nhiên,
dù muốn dù không, những nhà nghiên cứu và phê b́nh nghiêm túc
về Đoạn Trường Tân Thanh đều không thể phủ nhận vai tṛ của tư
tư tưởng đạo Phật ít nhiều ảnh hưởng trong đó. Một cách rơ
ràng hơn, chúng ta thấy một Trần Trọng Kim đă tŕnh bày cả “Lư
thuyết Phật học trong Truyện Kiều”.
Đồng thời, một số người khác cũng nêu ra tính chất Phật giáo
trong Đoạn Trường Tân Thanh như Đông Hồ, Thanh Nhân, Lê Văn
Ḥe, Lê Xuân Mỹ.
Dầu
vậy, chúng ta chỉ thấy một lối nh́n tư tưởng đạo Phật, theo
quan điểm thông thường, quen thuộc về luân hồi, nghiệp báo,
nhân quả… mà chưa rút ra được điều ǵ mới mẻ hầu có thể soi
sáng phần nào về Truyện Kiều. Ngoài ra, một số người nhận thấy
hiện sinh tính có nhiều điểm gần với tư tưởng Phật giáo nên đă
khai thác thân phận nàng Kiều dưới khía cạnh bi đát. Và đây
chính là lĩnh vực được nhiều người chú ư đến, xem như là nền
tảng của tư tưởng Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh. Nhưng
thật ra, cuộc đời Kiều có phải là biểu trưng tính chất bi đát
của đời người và người đời hay không? Nêu câu hỏi này để rồi
chúng ta sẽ cố gắng giải quyết vẫn dưới nhăn quan Phật học
nhưng với một cái nh́n khác hơn trong suốt đề tài này. Nói
khác đi, ở đây chúng ta lại đọc Đoạn Trường Tân Thanh tạm bằng
khuôn thước đạo Phật, nhưng hăy xem đó như là phương tiện để
t́m hiểu những điểm cốt yếu bên trong mà thôi. Và nhờ phương
tiện đó, chúng ta sẽ nh́n thấy cuối cùng nghệ thuật là đích
điểm vượt thẳng lên trên mọi khuôn thước. Ở đó, tư tưởng đạo
Phật cũng Không, lời hay ư đẹp cũng Không, luân lư cũng Không…
Nghệ thuật là sự ḥa điệu, là trung đạo, dung ḥa tất cả những
mâu thuẫn và cả thân phận bi đát của kiếp người. Nói khác hơn
nữa, ở một chân trời lư tưởng, nghệ thuật thiết định trên nỗi
đoạn trường của Nguyễn Du nhằm “chỉ hướng cho thuyền đời và
làm nẩy hoa cho chuộc sống”, nó đă ḥa hợp được một bên là
những điều phức tạp của đời sống và một bên là niềm vui thanh
thoát của lẽ đạo.
Nh́n lại cuộc đời của Tố Như tiên sinh xuyên qua các thi tập
lưu truyền, chúng ta càng nhận chân bầu trời nghệ thuật của
ông, một con người từng đọc hơn cả ngàn lần kinh Kim Cương đă
viết
:
“Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn. Thuyết pháp độ nhân như hằng hà
sa số. Nhân liễu thử tâm, nhân tự độ. Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm
đầu. Minh kính diệc phi đài. Bồ Đề bản vô thụ. Ngă độc Kim
Cương thiên biến linh. Kỳ trung áo chỉ đa bất minh. Cập đáo
phân kinh thạch đài hạ. Tài tri vô tự thị chân kinh”.
吾聞世尊在靈山。说法渡人如恒河沙数。人了此心人自渡。靈山只在汝心頭。明鏡亦非臺。菩提本無樹。我讀金剛千遍零。其中奥旨多不明。及到分經石臺下。纔知無字是眞經。(梁昭明太子分經石臺)
(Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài – Bắc Hành tạp
lục).
Chân kinh vốn không câu chấp chữ nghĩa, cho nên Đào Duy Anh đă
nh́n thấy điểm này:
“Cái quan niệm về Phật của Nguyễn Du, không câu nệ bó buộc ở
văn tự, chỉ chú trọng về tâm linh, hẳn là chịu ảnh hưởng của
Thiền tông…
…Trong Đoạn Trường Tân Thanh, cái chủ trương “Thiện căn bởi
tại ḷng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, cũng là chịu ít
nhiều ảnh hưởng của quan niệm ấy”.
Trong viễn tượng đó, nghệ thuật đă được thăng hoa, đúng hơn là
một nghệ thuật sống, một sự rung cảm cùng nhịp với lẽ đạo.
Chúng ta há không nghe Nguyễn Du đă thị kiến huyền nhiệm của
nghệ thuật: “Phúc họa đạo trời, cội nguồn cũng ở ḷng người mà
ra, có trời mà cũng tại ta” (c.2655-2657) hoặc “Tẻ vui cũng
tại ḷng này”… Mà nghệ thuật chính là mối giao tiếp giữa chứng
đắc của tâm thái thiền và cuộc đời. Cho nên, nghệ thuật cao cả
của Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh rốt cùng trở lại
thành tục đế, nghĩa là chân lư tương đối một khi chúng ta vẫn
loay hoay về các chi tiết nhỏ hẹp, vụn vặt và khuôn thước.
Phải bước thêm một bước nữa, vượt thêm một bậc thang nữa chúng
ta mới có thể đến chân đế tiến vào ư nghĩa đích thực mà Tố Như
tiên sinh đă thâm ngộ được. Phải chăng ấy là ngụ nghĩa ông đă
từng trao cho chúng ta: “Măn cảnh giai không hà hữu tướng. Thử
tâm thường định bất ly thiền” (Đề Nhị Thanh Động – Thanh Hiền
tiền hậu tập)
(满境皆空何有相。此心常定不離禪
- 题二青洞 - 清軒前後集)
。
Toàn cảnh giới đều là không th́ làm ǵ có sắc tướng, ḷng này
thường định không rời thiền. Chỉ dưới kiến giải của Thiền,
chúng ta mới khai sáng được ư nghĩa nghệ thuật nơi Truyện Kiều
mà Thúy Kiều chính là hiện thân của nỗi đoạn trường; đồng thời
cũng là biểu tượng của một tâm thức đă thực chứng, đă vượt qua
cầu đoạn trường và nhất là đă tiến đến sự giải thoát. Đằng
khác, tư tưởng mang dấu tích trong Đoạn Trường Tân Thanh không
thể giải quyết được bài học đoạn trường một cách ổn thỏa nếu
không thâm hiểu bằng lối nh́n kiến giải của thiền. Nó chỉ nhằm
tŕnh bày những sự kiện, những biểu tượng để dẫn đến cửa ngơ
nghệ thuật như đích điểm không thể hiểu được bằng sự suy nghĩ
hay bàn bạc của lư trí. Nếu nền tảng của tư tưởng đạo Phật
chứa đựng trong Đoạn Trường Tân Thanh khởi sinh từ nhận thức
trước cuộc đời và trong một hoàn cảnh thời đại th́ nó phải
được đọc và hiểu trong một nhịp điệu tương ứng. Những phương
pháp phê b́nh đă sử dụng được coi là khách quan cũng như
phương pháp phân tích theo lối cơ cấu hiện thời chỉ có một tầm
mức thật giới hạn trong việc truy t́m chân nghĩa một tác phẩm
nghệ thuật. Do đó, nền tảng của các tư tưởng đạo Phật nơi
Truyện Kiều – nói một cách riêng – phải là nghệ thuật mà yếu
tính của nó là tính chất tự tại và tự do. Đương nhiên, ư nghĩa
của sự tự do này không thể bị lạm dụng một cách tầm thường
bằng vào lối hiểu của tri thức luận một lối duy tâm nào đó.
Chủ yếu của sự tự do nằm trong sự khai sáng vượt lên trên mọi
thành kiến, mọi khuôn thước để bắt gặp một bầu trời thênh
thang, khoáng đạt của nghệ thuật và cũng chính là nét vẻ của
tư thái thiền. Nói khác hơn, chúng ta không phủ nhận vai tṛ
cần thiết của đường lối, của phương pháp hoặc khuôn thước nào
đó nhằm soi rọi vào một tác phẩm đạt đến tŕnh độ nghệ thuật
cao như Truyện Kiều. Những cách thế này phải được vượt qua và
sử dụng như một thứ phương tiện mà thôi.
Như
thế, chúng ta chỉ có thể truy nhận ư nghĩa của tư tưởng đạo
Phật trên một căn bản có tính cách toàn diện và trong sự ḥa
hợp của Nghệ Thuật. Đến đây, những câu hỏi quan trọng khác
được đặt ra và cần được minh xác: Thế nào là sự ḥa hợp của
nghệ thuật? Toàn diện tính chất của tư tưởng đạo Phật trong
Đoạn Trường Tân Thanh là ǵ? Trước các câu hỏi cấp thiết này,
chúng ta có hai trường hợp xử trí thông thường:
-
Hoặc là sử dụng các qui chiếu
được gọi là khách quan để phê b́nh.
-
Hoặc là ghi nhận theo các phản
ứng hay sự rung cảm do các tác phẩm đem lại có tính cách chủ
quan.
Cả
hai lối trả lời trên cuối cùng đều có những khuyết điểm không
thể nào tránh khỏi, v́ vẫn cố chấp vào tư thế khách quan hay
chủ quan. Đồng thời, cả hai cũng bất lực trước sự khao khát
t́m hiểu thế nào là chân lư toàn diện, thế nào là rốt ráo
nghĩa của nghệ thuật. Và nếu có trả lời được câu hỏi trên,
chúng ta vẫn sẵn sàng hoài nghi về sự thấu hiểu ấy. Chân nghĩa
của tư tưởng và nghệ thuật luôn được thiết định trên sự bất
khả tư nghị, bất khả định, nhưng có sức lôi cuốn mănh liệt
cũng như chi phối chúng ta không nguôi. Thành thử nói về chân
nghĩa hay toàn diện tính của Đoạn Trường Tân Thanh cũng chỉ là
đứng ngoài mà nh́n vào một thực tế sinh động, hoặc giả vẫn chỉ
là đường lối loanh quanh đi từ ngộ nhận này đến lầm lẫn khác.
Sai
lầm căn bản trong sự nghiên cứu và t́m hiểu Đoạn Trường Tân
Thanh, nói riêng, và bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào khác, nói
chung, là luôn luôn nhận xét chúng bằng những phạm trù, phương
pháp, hệ thống, … vay mượn của Tây phương. Mặt khác, tinh thần
lệ thuộc h́nh thức bên ngoài hầu như bó buộc chúng ta phải
tŕnh bày sự thấu hiểu hoặc cách giải quyết vấn đề căn cứ trên
sự rơ ràng, mạch lạc và cần nhất là hợp lư, chứ không lưu tâm
đến diệu nghĩa bên trong. Thành thử, chúng ta cần học hỏi một
tinh thần cố hữu của Đông phương đă bị bỏ quên khá lâu trong
sự t́m hiểu thâm nghĩa ẩn giấu đằng sau mọi chất liệu hoặc
ngôn từ cấu thành nghệ thuật, nhất là thi ca.
Đó
là phương thế đi thẳng vào chính chất liệu hay ngôn từ, sống
trọn vẹn với nó trong một sự tra hỏi liên tục; để rồi một giây
phút chín muồi nào đó, chân nghĩa sẽ phơi bày trước mắt. Nhưng
trong những bước t́m cầu thâm nghĩa, làm thế nào chúng ta có
thể nh́n thẳng chất liệu và vượt lên nó? Đây chính là câu hỏi
mà chúng ta sẽ khai triển trong suốt đề tài này. Chúng ta sẽ
không có tham vọng hoặc cầu mong đạt đến chân nghĩa qua tư
tưởng đạo Phật trong Truyện Kiều. Chúng ta cũng không nêu ra
một phương thế t́m hiểu mới mẻ nào cả để nghiên cứu Đoạn
Trường Tân Thanh. Phương thế đó đă sẵn tự bao giờ và chúng ta
trong một lối nh́n được coi là khoa học, là hệ thống đă lăng
quên nó từ ngay chính cơi ḷng chúng ta.
Cho
nên, t́m trở lại con đường mờ dấu của người xưa và học hỏi nơi
chính Tố Như tiên sinh, chúng ta sẽ bắt gặp phương thế này như
là cửa ngơ đến với nghệ thuật. Nghĩ về, bàn bạc về chân nghĩa
đều là sự lầm lạc. Với Truyện Kiều và Nguyễn Du cũng không ra
ngoài ư tưởng ấy. Há chúng ta không từng được Nguyễn Du tiên
sinh vạch nẻo chỉ đường hay sao: “Ta đọc kinh Kim Cương có hơn
ngàn lần. Thâm nghĩa bên trong phần nhiều không hiểu thấu. Măi
đến khi tới dưới đài phân kinh này, mới biết rằng kinh không
chữ mới là chân kinh”. (Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh
Thạch Đài – Bắc hành tạp lục). Mặc dầu Đoạn Trường Tân Thanh
không phải là kinh điển theo nghĩa thông thường, nhưng không
một ai có thể chối từ giá trị Nghệ Thuật của nó được đóng góp
với ít nhiều tư tưởng đạo Phật bên trong, cạnh những tư tưởng
khác. Chúng ta không thể nghĩ bàn về nghệ thuật ở đệ nhất
nghĩa, th́ cũng không thể nghĩ bàn về nghệ thuật ở b́nh diện
cao cả của nó. Bó buộc chúng ta phải định nghĩa nghệ thuật là
ǵ, rốt ráo nghĩa Đoạn Trường Tân Thanh là ǵ, tức là cố t́nh
đưa đẩy vào sự sa đọa của ngôn từ và ngụp lặn trong chốn mê
muội ngàn đời. Nhưng cũng v́ sự bó buộc cấp thiết ấy, nó mới
giúp cho chúng ta tra hỏi liên tục từ trong sa đọa muội mê hầu
có thể khai mở chân nghĩa. Đây không hẳn là sự mâu thuẫn trong
cách thế lư luận khai mào cho đề tài; nó mâu thuẫn mà không
mâu thuẫn vậy.
Trong viễn tượng đó, chúng ta có lẽ sẽ đồng ư với Đặng Tiến
khi ông viết:
“Sáng tạo được vẻ đẹp của những kiếp đoạn trường, Nguyễn Du đă
tạo một niềm tin mới cho con người, tạo ư thức của những giá
trị cao cả tiềm tàng trong cuộc sống. Nghệ thuật hóa thảm kịch
thân phận là khơi nguồn vui vô tận cho con người. Xét dưới
khía cạnh đó, cái đẹp là vinh dự của kẻ thất bại và nghệ thuật
là một chiến thắng”.
Phải chăng “nguồn vui vô tận” đó chính là tâm thức giải thoát
mà Kiều đă thức ngộ sau bao nỗi thăng trầm luân lạc?
Chúng ta đă đặt nhiều câu hỏi để qui hướng ư nghĩa tư tưởng
đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh như là một đ̣i hỏi trả
lời không thể lẩn quanh được. Và câu giải đáp sẽ dựa trên
chiều hướng nghệ thuật, dưới cái nh́n của thiền, dù chỉ là
những kiến giải nông cạn nhất.
Trong việc triển khai ư hướng đó, tập tiểu luận này sẽ lần
lượt tŕnh bày qua ba phần chính:
Phần một: Về Nguyễn
Du sẽ giới thiệu đôi nét về Tố Như và các tác phẩm chính và
nguồn gốc Đoạn Trường Tân Thanh.
Phần hai: Vị trí tư
tưởng của đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh.
Phần ba: Những nhận
định về tư tưởng đạo Phật qua Nguyễn Du và trong Đoạn Trường
Tân Thanh.
Phần Tổng Luận sẽ thẩm định giá trị của tư tưởng đạo Phật
trong Đoạn Trường Tân Thanh và mở rộng chân trời đến cuộc đời.
Đồng thời thử duyệt xét lại các câu hỏi được đặt ra từ đầu:
Tại sao một tác phẩm văn chương chất chứa tư tưởng được nhận
thức từ đời sống bao giờ cũng có khả năng cuốn hút người đọc?
Đọc Kỳ 1