trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |     www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Hòa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đã xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trãi" (dịch và chú giải 2009)

 


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

 

 


BẮC HÀNH TẠP LỤC

Dương Anh Sơn

Chuyển Lục Bát
 

   

  

 


 

Bài 15:

 

 

VỌNG QUAN ÂM MIẾU

 

   望觀音廟

 

 

Y thuỳ tuyệt cảnh cấu đình đài,        伊誰絕境構亭臺
Phạt tận tùng chi trụy hạc thai.        
代盡松枝墜鶴胎
Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá,       
石穴何年初鑿破
Kim thân tiền dạ khước phi lai.       
金身削夜卻飛來
Ðình vân xứ xứ tăng miên định,        
停雲處處僧眠定
Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai.         
落口山山猿叫哀
Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp,  
一炷檀香消慧業
Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.          回頭已隔萬重崖

 

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

 

NGÓNG NHÌN MIẾU QUAN ÂM

 

Tận đây ai dựng đình đài?

Cành tùng chặt hết, hạc thai rơi rồi!

Năm nào hang đá khoét moi,

Bay về đêm trước tượng người đến đây.

Mây dừng, sư ngủ yên say,

Vượn gào vang núi, đó đây chiều tàn.

Nén hương: tuệ nghiệp tiêu tan,

Ngoảnh đầu xa cách muôn vàn vách non.

 

DỊCH NGHĨA:

 

Ai đã là người đã làm nên những đình đài ở nơi chốn tận cùng như thế này? Có lẽ đã chặt hết những cành cây tùng, làm cho rơi hết những bào thai của con chim hạc? Nhớ năm nào khi hang động mới bắt đầu được đục phá để cho đêm hôm trước, tượng vàng đức Phật bay đến đây? Những đám mây đã dừng lại khắp chốn với vị sư đang trong giấc ngủ yên ổn. Lúc ngày tàn, đó đây trong các dãy núi tiếng vượn hú nghe ai oán! Đốt một nén nhang đàn hương làm tiêu tan đi tuệ nghiệp. Ngoảnh đầu đã thấy xa cách muôn trùng những vách núi rồi!

 

CHÚ THÍCH:

                                                

 

     
y: đúng là, thực là, là, kia là…
絕境   tuyệt cảnh:  ở nơi tận cùng xa xôi (khác: cảnh vật tuyệt đẹp).
鶴胎  hạc thai:  bào thai của con chim hạc. Thực ra, chim hạc cũng như các loài chim khác chỉ đẻ trứng để nở ra con chứ không mang thai đẻ ra con.
鑿破  tạc phá: đục đẽo, khoét moi cho rộng ra
金身 kim thân: thân hình cao quý như vàng, hình tượng bằng vàng của đức Phật Tổ hoặc Phật Quan Thế Âm.
檀香   đàn hương:  một loại gỗ quý có hương thơm ngát được dùng để làm nhang thơm.
慧業  tuệ nghiệp: dùng sự sáng suốt nhờ tu tập để thấy rõ những nghiệp chướng cản trở sự giải thoát.
消慧業  tiêu tuệ nghiệp: làm tiêu tan tuệ nghiệp. Theo nhà Phật đạt đến chỗ “vô lậu học”, “vô học”, “vô sư tự ngộ” mới thực sự đạt đạo không còn phải dựa vào chiếc bè “tuệ” để qua sông nữa. Nghĩa là đã chứng ngộ giải thoát.
     

 

 

 

 

 

Bài 16:

 

TAM GIANG KHẨU ĐƯỜNG DẠ BẠC

 

   三江口塘夜泊

 

 

Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân,      西粵重山一水分
Lưỡng sơn tương đối thạch lân tuân.  
兩山相對石磷峋
Viên đề thụ diểu nhược vô lộ,            
猿啼樹杪若無路
Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân.    
犬吠林中知有人
Tứ vọng vân sơn nhân độc lão,           
四望雲山人獨老
Ðồng chu Hồ Việt các tương lân.        
同舟胡越各相親
Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ,        
十年已失還鄉路
Ná đắc gia hương nhập mộng tần.       
邢得家鄉入夢頻

 

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

 

ĐÊM ĐỖ THUYỀN Ở CỬA VŨNG TAM GIANG

 

Chia non Tây Việt một dòng,

Lô nhô đá núi hai hòn nhìn nhau.

Tưởng chừng không lối, vượn gào!

Trong rừng chó sủa người nào biết ngay.

Già người riêng giữa núi mây,

Chung thuyền Hồ Việt thế này thân quen.

Mười năm làng cũ đường quên,

Làm sao vào mộng về bên quê nhà?!

 

DỊCH NGHĨA:

 

Một dòng sông đã phân chia dãy núi Tây Việt. Hai hòn núi đá lô nhô lởm chởm cùng nhìn nhau. Vượn hú trên các ngọn cây, tưởng như không có lối đi đến đó. Ở giữa rừng rú khi có tiếng chó sủa vang là biết có người. Nhìn quanh bốn phía đều là núi và những đám mây, riêng người trơ trọi già hẳn đi. Đi chung thuyền với kẻ Hồ người Việt đều là thân quen cả. Mười năm trời đã quên đi đường trở về làng xưa. Làm sao được đi vào trong giấc mộng cùng với chốn quê nhà đây?!

 

CHÚ THÍCH:

                                                                                

 

  đường: ao nước, vũng nước lớn.
 bạc: đỗ thuyền nghỉ lại, chỗ neo thuyền.
西粵 Tây Việt:  tên đất Việt cổ thuộc tộc Bách Việt nằm giữa hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây nước Trung Hoa. Đồng thời cũng là tên riêng của tỉnh Quảng Đông.
磷峋   lân tuân: đá núi nhọn lởm chởm, lô nhô.
   diểu: ngọn cây cao.
胡越  Hồ Việt: cách nói để chỉ người Hán ở Trung Hoa và người nước Việt.
十年  thập niên:

mười năm kể từ khi vua Gia Long lên ngôi triệu tập Nguyễn Du ra làm quan (1802) và đến khi đi sứ Trung Hoa (1813) hầu như Tố Như luôn bận việc quan phải xa quê nhà.

     

 

                                    

           
 


 

 

 

 

 

Xem Bài số 17 - 18

 

 

 

 

 



D
ương Anh Sơn
 Giáo Sư Triết học

Trung học Ninh Hòa

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |     www.ninh-hoa.com