|
BẮC HÀNH TẠP
LỤC
Dương Anh
Sơn
Chuyển Lục Bát
|
Bài
90:
SỞ BÁ VƯƠNG MỘ (Nhị thủ)
楚霸王墓
Bài
1 一
Bạt sơn giang đỉnh nại thiên hà?
拔山扛鼎奈天何
Túc hận du du kư thiển sa.
夙恨悠悠寄淺沙
Bá Thượng dĩ thành thiên tử khí,
霸上已成天子氣
Trướng trung không thính mỹ nhân ca.
帳中空聽美人歌
Nhăn tiền phiến thạch anh hùng tại,
眼前片石英雄在
Sự hậu quần nho khẩu thiệt đa.
事後群儒口舌多
Dục mịch Trường Lăng nhất phôi thổ,
欲覓長陵一坏土
Xích Mi loạn hậu biến bồng ma.
赤眉亂後遍蓬麻
TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:
MỘ SỞ BÁ VƯƠNG (Bài 1)
Dời non, nhấc đỉnh: do trời,
Hận xưa gửi cát xa vời mỏng manh.
Con trời: Bá Thượng khí thành,
Người xinh ca hát trong màn lặng nghe.
Anh hùng trước mắt đá ghi,
Về sau miệng lưỡi lắm bề bọn nho!
Trường Lăng muốn kiếm đất g̣,
Xích Mi sau loạn gai giờ tràn lan.
DỊCH NGHĨA:
Dời được non, nhấc được đỉnh mọi sự đều do trời biết làm sao
đây? Nỗi uất hận phải gửi dưới lớp cát mỏng chốn xa xôi. Nơi
vùng đất Bá Thượng đă thành h́nh cái khí tượng của bậc con
trời (sắp làm vua). Cho nên, chỉ c̣n biết im lặng nghe tiếng
hát của người đẹp trong màn. Trước mắt vẫn c̣n dấu vết nơi
phiến đá ghi chép về kẻ anh hùng. Sau việc (thất bại) này, bọn
nho miệng lưỡi lắm bề bàn tán. Muốn t́m kiếm ở đất Trường Lăng
một nắm g̣ đất nhưng sau loạn Xích My, nơi này cây bồng, cây
gai đă mọc tràn lan khắp nơi.
CHÚ THÍCH:
|
楚霸王 |
Sở Bá Vương: |
tức Hạng Tịch tự là Vũ (232-202 TCN) người vùng Hạ Tương (Giang
Tô, Trung Hoa) xuất thân từ gia đ́nh nhiều đời làm tướng cho
nước Sở. Tịch theo chú là Hạng Lương nổi binh ở Ngô Trung đánh
tan quân nhà Trần, tự xưng là Tây Sở Bá vương cùng tranh đoạt
giành chiếm đất đai, mở rộng cương giới và thống trị đất nước
với Lưu Bang. Về sau bị thua trận lớn ở Cai Hạ và phải tự vẫn ở
Ô Giang. |
扛鼎 |
giang
đỉnh: |
nhấc
chiếc đỉnh lên (đỉnh có h́nh dạng như chiếc lư đồng để bày biện
nơi thờ tự gồm có hai tai và ba chân to cao hơn vai người và
nặng vài trăm kư trở lên. C̣n vạc là h́nh chiếc chảo lớn dùng để
đun nấu ở các bếp ăn lớn nhiều người…). Hạng Vũ đă từng nhấc
bổng chiếc đỉnh to cao trước miếu vua Hạ Vũ. Điều này cho thấy
sức khỏe và con người lực lưỡng của ông. |
霸上 |
Bá Thượng: |
là vùng đất ở Thiểm Tây, Trung Hoa. Lúc Lưu Bang khởi binh
nghiệp có đám mây h́nh con rồng năm màu nên dân gian cho rằng
ông đă có khí tượng và điềm báo làm vua. Sau này khi dẹp tan
quân binh và nước Sở, ông lên ngôi tức Hán Cao Tổ. |
空聽 |
không thính: |
lặng
im để nghe. Đây là h́nh ảnh buồn bă của Hạng Vũ khi bị Hán Lưu
Bang vây kín, không xoay trở được ở vùng Cai Hạ. Sở Bá Vương đă
làm bài hát “Cai Hạ Ca” để hát trong nỗi buồn sầu và vợ là Ngu
Cơ đă hát xướng họa theo làm cho ai nấy đều khóc buồn tủi. |
câu 6: |
|
các nhà nho đă mất nhiều công sức để tranh căi lư do Hạng Vũ sau
trận thua ở Cai Hạ lại không chịu mở đường rút về Giang Đông để
củng cố lực lượng. |
覓 |
mịch: |
ḍ t́m, t́m kiếm. Đây chỉ việc t́m kiếm lăng mộ của Hán Cao Tổ ở
Trường Lăng (Thiểm Tây, Trung Hoa). Có lẽ Nguyễn Du muốn nói đến
việc tranh giành thiên hạ của Hán và Sở cùng đều tàn phai theo
thời gian… |
坏土 |
phôi thổ: |
bồi đắp, vun đắp đất lên cao thành g̣ nấm. |
赤眉 |
Xích Mi: |
“Lông mày đỏ”, là cách gọi tên của cuộc khởi nghĩa thời Tây Hán
khi quân lính bôi màu đỏ lên lông mày để tránh nhầm lẫn với quân
của Vương Măng. |
|
Bài 2
二
Lộ bàng phiến thạch độc tranh vanh,
路旁片石獨崢嶸
Bất thị Ô Giang, thị Lỗ Thành.
不是烏江是魯城
Cập thức bại vong phi chiến tội,
及識敗亡非戰罪
Không lao trí lực dữ thiên tranh.
空勞智力與天爭
Cổ kim vô na anh hùng lệ,
古今無那英雄淚
Phong vũ do văn sất trá thanh.
風雨猶聞叱吒聲
Tịch tịch nhị thời vô tảo tế,
寂寂二時無掃祭
Xuân lai Ngu thảo tự tùng sanh.
春來虞草自叢生
TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:
MỘ SỞ BÁ VƯƠNG (Bài 2)
Bên đường riêng phiến đá cao,
Đây là thành Lỗ phải nào Ô Giang.
Đánh thua biết chẳng lỗi lầm,
Uổng công trí năo giành cùng trời nao.
Xưa nay mấy lệ anh hào,
Nghe cơn cuồng giận thét gào gió mưa.
Vắng tanh cúng dọn hai mùa,
Xuân về tươi tốt rậm rà cỏ Ngu.
DỊCH NGHĨA:
Bên đường có phiến đá cao chót vót đứng lẻ loi không phải ở Ô
Giang mà ở thành nước Lỗ. Kịp khi biết chuyện đánh nhau thua
trận chẳng phải do lầm lỗi của ḿnh mới thấy việc đem trí năo
tranh giành với ông trời rất uổng công. Xưa nay không có nhiều
kẻ anh hùng phải rơi lệ. Trong cơn mưa gió c̣n nghe tiếng la
hét giận dữ. Việc cúng giỗ, quét dọn vào hai kỳ của mùa xuân
và mùa thu rất là vắng vẻ. Lúc xuân về chỉ có loài cỏ Ngu sinh
sản tốt tươi rậm ŕ.
CHÚ THÍCH:
|
魯城 |
Lỗ Thành: |
thành
cũ nước Lỗ (Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Hoa) là thành tŕ cuối
cùng của quân Sở đầu hàng Lưu Bang. |
烏江 |
Ô Giang: |
sông ở phía bắc Ḥa Huyệt (An Huy, Trung Hoa) nơi Hạng Vũ thắt
cổ quyên sinh. |
崢嶸 |
tranh vanh: |
cao chót vót, cao vút. |
空勞 |
không lao: |
uổng công sức, uổng phí sức lực. |
câu 3 và 4: |
|
người Trung Hoa xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng “thiên
mệnh” khi cho rằng việc làm vua hoặc làm nên nghiệp đế, nghiệp
bá là do mệnh trời. Cho nên kẻ anh hùng đầy sức mạnh như Hạng Vũ
cũng không qua được sự lựa chọn, sắp đặt của ông trời. |
二時 |
nhị thời: |
tức hai lần tế lễ chính vào đầu mùa xuân và mùa thu. |
無那 |
vô na: |
không nhiều lắm, không mấy người… |
叱吒 |
sất trá: |
la
hét giận dữ, có sách viết là “sá” (嗄)có
nghĩa là la hét khản tiêng. |
寂寂 |
tịch tịch: |
rất là vắng vẻ, vắng tanh. |
掃祭 |
tảo tế: |
quét dọn và cúng tế. |
叢 |
tùng: |
cỏ mọc rậm rạp. |
虞草 |
Ngu thảo: |
loài cỏ mọc dầy rậm vào mùa xuân được đặt tên của Ngu Cơ là vợ
của Hạng Vũ. |
|
Bài 91:
MẠNH TỬ TỪ CỔ LIỄU
孟子祠古柳
1 Ngô văn thiên tŕ chi phần hữu long yểu kiểu,
吾聞天池之濆有龍夭矯
Kim chi hoạ đồ vô lược tiếu.
今之畫圖無略肖
Phong vũ nhất dạ phi hạ lai,
風雨一夜飛下來
4 Hoá vi Á Thánh cung môn liễu.
化為亞聖官門柳
Thử liễu hồn toàn bách thập vi,
此柳渾全百十圍
Dưỡng thành đại vật phi nhất th́.
養成大物非一時
Vũ lộ thiên ư độc tư nhuận,
雨露天意獨滋潤
8 Quỷ thần ám trung tương phù tŕ.
鬼神暗中相扶持
Chi kha lạc lạc lăo ích tráng,
枝柯落落老益壯
Tuế nguyệt du du thâm bất tri.
歲月悠悠深不知
Tả bàn hữu chuyển đương đại đạo,
左蟠右轉當大道
12 Quá khách bất cảm phan kỳ chi.
過客不敢攀其枝
Thông thông uất uất băo nguyên khí,
蔥蔥鬱鬱抱元氣
Thiên hạ tư văn kỳ tại ti (tư).
天下斯文其在斯
Hương nhân chi dĩ nhị thạch trụ,
鄉人支以二石柱
16 Thạch trụ kư thâm căn dũ cố.
石柱既深根愈固
Bất đồng phàm huỷ tiểu xuân thu,
不同凡卉小春秋
Bán mẫu phong yên tự kim cổ.
半畝風煙自今古
Hạo nhiên chi khí phi tầm thường,
灝然之氣非尋常
20 Đại tài ưng dữ thiên tề thọ. 大材應與天齊壽
TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:
CÂY LIỄU XƯA Ở ĐỀN MẠNH TỬ
1 Ao trời rồng lượn, ta nghe,
Nay tranh vẽ chẳng giống ǵ lắm thay.
Đêm mưa gió xuống cơi này,
4 Cửa cung á thánh hóa cây liễu rồi.
Ṿng cây ôm đủ trăm người,
Phải đâu cây lớn một thời trồng xong?
Ư trời mưa móc tươi nhuần,
8 Quỷ thần cũng đă ngấm ngầm giúp nhau.
Cành già cứng cáp vững sao!
Đâu hay năm tháng thuở nào mênh mông.
Cành cây phải trái uốn cong,
12 Qua đường cành vịn khách không dám rồi.
Ôm vào nguyên khí tốt tươi,
Nền “văn” ở dưới bầu trời là đây.
Người làng dùng trụ đỡ cây,
16 Càng sâu trụ đá gốc này vững hơn.
Cỏ xuân thu chẳng sánh cùng,
Xưa nay nửa mẫu gió lồng khói vương.
Hạo nhiên khí chẳng tầm thường,
20 Cây to sống măi với cùng trời thôi.
DỊCH NGHĨA:
Ta nghe nói bên bờ ao trên trời có con rồng uốn lượn nhưng các
bức tranh vẽ ngày nay chẳng giống chút ǵ. Một đêm trời mưa
gió, con rồng đă bay xuống cơi trần đến bên cửa đền của bậc Á
Thánh hóa làm cây liễu. Cây liễu này c̣n vẹn toàn phải trăm
người ôm mới xuể. Nuôi trồng thành cây liễu to lớn không phải
một thời là được. Ư của ông trời đem mưa móc cho cây tươi tốt,
thấm nhuần và quỉ thần bên trong cũng ngấm ngầm giúp đỡ. Cho
nên cành nhánh của cây sum suê và càng già càng cứng cáp vững
vàng. Cây đă trải qua biết bao năm tháng xa vời, mênh mông
không biết được. Cành uốn khúc phía bên trái rồi lại quay ṿng
về phía phải ở ngay con đường lớn. Những người khách đi ngang
qua không dám vịn vào cành. Cây sum suê, tươi tốt ôm ấp cái
tinh túy, sức mạnh tinh thần bên trong. Đạo lư, truyền thống
đẹp đẽ trong thiên hạ là nơi này. Người ở làng đă cho làm hai
trụ đá để giữ cây được vững vàng, trụ đá càng sâu cây mới được
chắc chắn, lâu dài. Không cùng các loài cây cỏ theo mùa chỉ
trải qua xuân thu mấy độ, cây liễu này chiếm nửa mẫu đất trải
qua từ xưa đến nay biết bao là khói sương và gió lộng. Cái khí
lớn mênh mông ấy không phải tầm thường, cây liễu to lớn sẽ
cùng trời sánh ngang tuổi thọ.
CHÚ THÍCH:
|
孟子 |
Mạnh Tử: |
tức Mạnh Kha tên chữ là Tử Dư ( 372-289 TCN) sanh sau Khổng Tử
100 năm là người nước Trâu, phía nam Sơn Đông, Trung Hoa. Ông là
nhà tư tưởng lớn của thời Chiến Quốc đă nối tiếp và phát huy tư
tưởng của Khổng Tử. Đồng thời, ông đă đề cao tính thiện và lương
tâm của con người, lên án chiến tranh và phác họa chân dung của
người trí thức xưa mà ta thường gọi là kẻ sĩ: “Phú quí bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Không ham
chuộng sự giàu sang; lúc nghèo khó cũng không thay ḷng đổi dạ,
và trước quyền lực không bao giờ khuất phục). Nói rộng hơn, tư
tưởng của Mạnh Tử vẫn nằm trong tinh thần của tư tưởng Khổng Tử
nhưng giải thích với ư nghĩa rộng răi để có thể áp dụng một cách
tích cực và hữu hiệu trong cách xử thế. (xem thêm sách Mạnh Tử). |
濆 |
phần: |
bờ sông, bờ ao, bờ nước. |
夭矯 |
yểu kiểu: |
cất
cao bẻ khúc và uốn lượn. |
無略肖 |
vô
lược tiếu: |
không giống ǵ, không giống chút nào. |
亞聖 |
Á Thánh: |
dưới bậc thánh. Đây là từ tôn xưng của người Trung Hoa dành cho
Mạnh Tử, người đă tiếp nối và đưa học thuyết của Khổng Tử đến
một đỉnh cao để có thể áp dụng tốt hơn trong cuộc sống con người
và xă hội. Riêng Khổng Tử được tôn xưng là Thánh Khổng v́ công
lao dạy đời không biết mệt của ông (Hối nhân bất quyện!). |
渾全 |
hồn
toàn: |
trọn
vẹn, vẹn toàn. |
落落 |
lạc lạc: |
sum
suê, dày đặc, tươi tốt. |
悠悠 |
du du: |
xa xôi, mênh mông. |
蟠 |
bàn: |
uốn khúc, cuộn tṛn, cong queo. |
敢 |
cảm: |
dám làm, dám nói, mạnh dạn. |
蔥蔥 |
thông
thông: |
màu tươi tốt. |
鬱鬱 |
uất uất: |
sum suê, đọng, tươi tốt. |
愈固 |
dũ
cố: |
yên ổn, vững bền hơn trước. |
卉 |
hủy: |
các loại cỏ, đông đảo. |
凡 |
phàm: |
phàm tục, tầm thường, đều, gồm. |
灝然之氣 |
hạo nhiên chi khí: |
cái lớn lao của trời đất và của con người, cái cốt cách tốt đẹp
cao khiết của một người luôn theo lẽ phải và sự trong sáng. Mạnh
Tử khi được hỏi thế nào là “hạo nhiên chi khí” đă trả lời: “nan
ngôn giải” (khó giải thích rơ ràng). Nhưng rồi Mạnh Tử về sau
cũng giải thích rơ: “Cái khí hạo nhiên đó rất lớn lao và cứng
cáp, phải nuôi dưỡng nó bằng sự thẳng thắn và chớ làm tổn hại
nó.” (Kỳ vi khí giả, chí đại chí cương, dĩ trực dưỡng nhi vô
hại-Sách Mạnh Tử). |
|
Xem
Bài số 92-93
Dương Anh Sơn
Giáo Sư Triết học
Trung học Ninh Ḥa
|