trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Ḥa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đă xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trải" (dịch và chú giải 2009)

 


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

 

 


THANH-HIÊN THI-TẬP

Dương Anh Sơn

Chuyển Lục Bát
 

   

  

 

 

Bài 27:

 

DAO VỌNG CÀN HẢI TỪ

遙望乾海祠


Mang mang hải thuỷ tiếp thiên xu,   茫茫海水接天樞
Ẩn ước cô từ xuất tiểu chu (châu). 
隱約孤祠出小洲
Cổ mộc hàn liên phù chử mộ,         
古木寒連鳧渚暮
T́nh yên thanh dẫn hải môn thu.      
晴煙青引海門秋
Hào thiên tướng tướng đan tâm tận,  
號天相將丹心盡
Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô.   
撫地瓊崖塊肉無
Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái,  
笑爾明妃長出塞
Tỳ bà bồi tửu khuyến Thiền Vu.      
琵琶杯酒勸單于

 

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

 

TỪ XA NH̀N ĐỀN CÀN HẢI

 

Mênh mông biển nối chân trời,

Đền nghèo khuất giấu băi bồi lẻ loi.

Cây chiều nối băi vịt trời,

Biển thu mưa tạnh cửa khơi khói tràn.

Hết ḷng các tướng kêu than,

Đất Quỳnh ḍng họ vùi tan c̣n ǵ!

Nực cười ra ải Minh phi,

Nghe theo chuốc rượu đàn tỳ Thiền Vu.

 

DỊCH NGHĨA:

 

Nước biển mênh mông tiếp nối chân trời. Thấp thoáng đền thờ lẻ loi giữa băi cồn nhỏ. Trời chiều, cây xưa lạnh lẽo nối liền với băi cát giữa sông có nhiều loài vịt trời. Cửa biển lúc tạnh mưa hơi khói xanh lan tỏa giữa mùa thu. Các tướng vơ tướng văn kêu than dù đă dốc hết tấm ḷng son. Thương xót thay đất Quỳnh Nhai đă lấy mất đi ḍng họ nối dơi. Nực cười cho bà Minh phi phải đưa ra ngoài chốn biên tái để nghe theo bọn Thiền vu chuốc rượu, gảy đàn tỳ bà cho họ.

 

CHÚ THÍCH:

 

Đền Càn Hải hay c̣n gọi là đền Cồn nằm trên băi cát ở Cửa Cồn ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh thờ Dương Thái Hậu vợ vua Tống Độ Tông đi lánh nạn quân Nguyên bị đắm tàu chết dạt vào Cửa Cồn được dân chúng lập đền thờ.   

Chú thích:
 

天樞   thiên xu: cḥm sao nằm trong cḥm Bắc Đẩu. Đây chỉ chân trời xa.
  ước: thô sơ, sơ sài, quanh co.
phù: con le le, vịt trời.
    chử: băi bồi ở giữa sông.
  hào: khóc than.
tướng: tướng văn, đứng trên trăm quan như tể tướng.
tướng:  tướng soái chỉ huy các đội quân.
丹心   đan tâm:  tấm ḷng son, ḷng chung thủy.
撫地  phủ địa:  đất che phủ.
塊肉   khối nhục: chỉ ḍng dơi. Dương Thái Hậu đời Tống khi nghe con là Đế Bính bị chết dùng từ “khối thịt” để nói về việc ḍng dơi không c̣n người nối dơi. 
明妃 Minh Phi: tức Dương Chiêu Quân là cung nữ của Hán Nguyên Đế thời Tấn bị chọn để đem cống giặc Thiền Vu phía Bắc để cho yên ổn nước nhà.
瓊崖  Quỳnh Nhai: tên đất ở Quảng Đông (TQ) là nơi tướng văn là Lục Tú Phu và tướng vơ là Trương Thế Kiệt đem Dương Thái Hậu và Đế Bính trốn chạy quân Nguyên, đường cùng phải nhảy xuống biển tự vẫn.
     

 

 

 

 

  

Bài 28:

 

 

GIANG Đ̀NH HỮU CẢM

江亭有感

 

Ức tích ngô ông tạ lăo th́,                  憶昔吾翁謝老時
Phiêu phiêu bồ tứ thử giang my.        
飄飄蒲駟此江湄
Tiên chu kích thuỷ thần long đẩu,       
仙舟激水神龍斗
Bảo cái phù không thụy hạc phi.        
寶蓋浮空瑞鶴飛
Nhất tự y thường vô mịch xứ,           
一自衣裳無覓處
Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi.        
兩堤煙草不勝悲
Bách niên đa thiểu thương tâm sự,     
百年多少傷心事
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.         
近日長安大已非

 

TẠM CHUYỂN LỤC BÁT:

 

CẢM XÚC Ở BẾN GIANG Đ̀NH

 

Nhớ khi cáo lăo cha về,

Nhẹ nhàng xe ngựa đưa kề bến sông,

Thuyền tiên lướt nước như rồng,

Hạc bay, lọng quí trên không báo lành.

Từ khi xiêm áo vắng tanh,

Đôi bờ khói cỏ chẳng đành sầu dâng.

Trăm năm nhiều chuyện thương tâm,

Trường An khác lắm bội phần gần đây!

 

DỊCH NGHĨA:

Nhớ khi xưa, lúc cha của ta cáo lăo về, xe bốn ngựa quấn cỏ bồ quanh bánh đưa đến bến sông này trông thanh thản nhẹ nhàng! Thuyền tiên gối nước lướt như rồng thần cao to như núi. Tàn lọng quí phái bay bổng trên không như chim hạc báo điềm tốt lành. Một lần từ lúc xiêm áo vắng tanh không c̣n nữa, hai bờ sông với những làn khói và đám cỏ sầu buồn không nguôi! Trăm năm trong đời xảy ra biết bao chuyện đau ḷng. Những ngày gần đây ở Trường An cũng đổi khác rất nhiều!

 

 

CHÚ THÍCH:

Giang Đ́nh: đ́nh làm ở gần bến sông của ḍng Lam ở quê Nguyễn Du tức làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân nên gọi là Giang Đ́nh. Bến sông này là nơi các quan về hưu hoặc các sĩ tử đậu đạt đều ghé qua chỗ này. Năm 1771, cha Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm xin về nghỉ được chúa Trịnh cho thuyền lớn đưa về. Năm 1774, chúa lại vời ông ra Thăng Long nhận chức tể tướng. Năm ấy, Nguyễn Nghiễm đưa quân đi đánh chúa Nguyễn ở phía nam bị đau nặng về nhà th́ mất (1775).

 

飄飄  phiêu phiêu: gió thổi hiu hiu, nhẹ nhàng.
激水 kích thủy: vượt trên nước, lướt trên ḍng chảy.
đẩu: sao đẩu trong nhị thập bát tú, núi cao to, th́nh ĺnh, cái đấu để đo lường (đong lúa, đong rượu).
寶蓋  bảo cái: tàn lọng che làm bằng lụa quư.
    thụy: điềm lành, ngọc dùng làm tin.
無覓處 vô mịch xứ: không t́m kiếm được nơi đâu.
大已非 đại dĩ phi: sự đổi khác, sự khác biệt lớn lao.
     

          

 

             


 

 

Xem BÀI 29 - 30

 

 

 

 

 



D
ương Anh Sơn
 Giáo Sư Triết học

Trung học Ninh Ḥa

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com