trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |          www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Ḥa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đă xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trải" (dịch và chú giải 2009)


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

  

 

Thơ LƯ BẠCH

DƯƠNG ANH SƠN

 

 

 
 

BÀI 48

 

 

古風其三十四

 

CỔ PHONG TAM THẬP TỨ 

 

 

1  羽檄如流星, Vũ hịch như lưu tinh ,

虎符合專城。      Hổ phù hợp chuyên thành .

喧呼救邊急,      Huyên hô cứu biên cấp ,

4    群鳥皆夜鳴。   Quần điểu giai dạ minh .

白日曜紫微, Bạch nhật diệu Tử Vi ,

三公運權衡。Tam công vận quyền hành .

 天地皆得一,    Thiên địa giai đắc nhất ,

   澹然四海清。Đạm nhiên tứ hải thanh .

借問此何為,     Tá vấn thử hà vi ?

答言楚徵兵。  Đáp ngôn :"Sở trưng binh". 

 渡瀘及五月,   Độ Lô cập ngũ nguyệt , 

12   將赴雲南征。 Tương phó Vân Nam chinh

怯卒非戰士,     Khiếp tốt phi chiến sĩ ,

 炎方難遠行。   Viêm phương nan viễn hành .

長號別嚴親,  Trường hào biệt nghiêm thân ,

16  日月慘光晶。  Nhật nguyệt thảm quang tinh

泣盡繼以血,  Khấp tận kế dĩ huyết ,

 心摧兩無聲。Tâm tồi lưỡng vô thanh .

困獸當猛虎,      Khốn thú đương mănh hổ ,

20     窮魚餌奔鯨。  Cùng ngư nhĩ bôn ḱnh .

千去不一回,  Thiên khứ bất nhất hồi

投軀豈全生。Đầu khu khởi toàn sinh

如何舞幹戚,    Như hà vũ can thích ,

24   一使有苗平。   Nhất sử hữu Miêu b́nh .

 

 

 李白   Lư Bạch 

 

 

 

 

 

Dịch nghĩa :

 

 

Cổ phong bài thứ ba mươi bốn.

 

          Những bảng hịch thông báo (có gắn lông gà ) như sao trời dịch chuyển ! Các hổ phù để triệu tập (các cấp) đến họp với các quan coi thành . Những lời kêu gọi ồn ào việc cứu giúp gấp rút vùng biên giới ! Các bầy chim đều kêu lên khi đêm tới .(C. 1-4).

         Mặt trời ban ngày soi chiếu cung Tử Vi .Các quan "Tam công" đứng đầu triều đ́nh đang dùng quyền hành để thực thi công việc .Trời và đất đều là một thể , bốn biển  đang tĩnh lặng và thanh b́nh  v́ sao lại xảy ra những việc này ? Câu trả lời là tập hợp quân lính ra đi đánh nước Sở ! (C. 5-8).

         Vượt qua sông Lô kịp đến tháng năm rồi cùng nhau đến Vân Nam đánh trận .Người lính mà hèn nhát không phải là người lính đi chiến đấu ! Đi về phương nam rất là khó khăn (nên) cứ gọi dài giă từ cha mẹ ! Ánh sáng mặt trời ,mặt trăng chiếu soi buồn bă , đau thương ! (C .9-12).

         Khóc như mưa măi cho đến khi chảy máu mắt ! Tấm ḷng và sự bi thương : cả hai không lời không tiếng ! Con thú bị vây hăm đến chỗ cùng sẽ dám đương đầu với loài hổ dũng mănh ; loài cá ở thế cùng phải vội vàng bơi trốn làm mồi cho cá voi ! (C. 17-20).

        Cả ngàn người ra đi không một ai quay trở về ! Đă ném h́nh hài đi , mạng sống há c̣n chăng giống như múa búa chỉ uổng công vô ích ; giá như chỉ có một lần là dẹp được bộ tộc Miêu hay sao !

 

Tạm chuyển lục bát :

 

CỔ PHONG BÀI THỨ 34

 

  1    Hịch như sao chuyển truyền mau ,

         Quan thành thẻ hổ họp nhau triệu vào .

Hét ḥ cứu ải gấp nào !

 2   Kêu vang khắp chốn vào đêm chim bầy .

Tử Vi trời chiếu ban ngày ,

         Tam công quyền bính việc này xét soi .

    Đất trời chỉ một mà thôi !

 8      Thanh b́nh bốn biển nơi nơi yên bề .

Hỏi sao làm việc đó chi ?

Trả lời : đánh Sở lính th́ vào quân .

Vượt sông Lô kịp tháng năm ,

  12      Cùng nhau đi đến Vân Nam xa nào !

 Hèn làm lính trận được đâu ,

          Phương nam xa tít gian lao bước đường .

Gào to từ giă thân thương ,

  16   Đêm ngày ánh sáng sầu buồn đớn đau !

Khóc như trút lệ máu trào ,

          Tan ḷng nát dạ không sao thành lời .

Thú nhoài mệt trước cọp rồi ,

  20Cùng đường cá chịu làm mồi ḱnh thôi !

Ngàn đi về lại không người !

      Tấm thân ném bỏ ,vẹn đời được đâu ?!

Múa may chiếc búa uổng sao !

24      Giá như có một lần nào dẹp Miêu !

 

 

   Chú thích :

 

 -  vũ hịch 羽檄 : bảng thông báo ngày xưa có treo chiếc lông gà để cho biết đây là việc gấp rút.

 -  lưu tinh 流星 : những ngôi sao chuyển ngôi mau chóng .

 -  hổ phù 虎符 : thẻ tre có chạm khắc h́nh con hổ để quan trên triệu tập người dưới quyền khi có việc cần kíp.

 -  chuyên thành 專城 : quan chuyên trông coi việc giữ thành tŕ ngày xưa .

 -  huyên hô 喧呼 : kêu la,hô hoán huyên náo ,ồn ào...

 -  Tử Vi 紫微 : theo thiên văn học xưa của Trung Hoa xưa , trên bầu trời có nhóm sao nằm quanh khu vực sao Bắc Đẩu gọi là cḥm Tử Vi Viên 紫微垣 . C̣n theo các đạo gia ,trên trời

có nhiều cung điện của chư tiên trong đó có cung điện Tử Vi .Các vua thời trước cũng đặt tên cho các cung điện của ḿnh theo tên các v́ sao đó.

  -  Tam Công  三公 : tước "Công", tước to nhất trong năm tước (Công,Hầu,Bá,Tử,Nam) .Quan "công", có ba bậc quan cao nhất thời xưa gọi là "tam công" . Nhà Chu của người Hán xưa đặt ba chức quan Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保 là "tam công".

 -  đạm nhiên 澹然 : yên ổn ,tĩnh lặng không bị xáo trộn...

 -  thử hà vi 此何為 :sao lại có việc này , làm việc này là v́ sao đây ...

 -  Lô : tức là Lô giang . Sông Lô ở đây chỉ khúc sông "Kim Sa" 金沙 nằm giáp tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ,T.H . bây giờ.

 -  phó : đi đến nơi , đi tới, báo việc tang ,đến dự vào công việc nào đó...

 -  khiếp : sợ hăi ,khiếp sợ ,hèn nhát ,yếu đuối...

 -  viêm phương 炎方: chỉ phương nam ,vùng có khí hậu nóng nhiều so với phía bắc.

 -  trường hào 長號 : gào to mà kéo dài ,kêu  la lớn giọng...

 -  thảm quang tinh 慘光晶 : tinh: ánh sáng trong suốt ,lóng lánh ,thủy tinh ,pha lê....Ánh sáng

buồn thảm ,đau thương ;ánh sáng nghe như chất chứa sầu đau ,buồn khổ ,bi thương...

 -  nhĩ : mồi câu cá ,nhử quân địch ,nuốt thức ăn ,dụ quân địch ...

 -  đầu khu 投軀 : ném bỏ thân thể ,bỏ ḿnh ,hy sinh ...

 -  can : uổng công vô ích , khô ráo ,suông không thực tế ...

 -  thích : cái búa ,thương xót ,lo lắng ,xấu hổ...

 -  Miêu :  c̣n gọi là người H' Mông gồm nhiều nhóm thiểu số sinh sống rải rác ở các vùng miền nam Trung Hoa cũng như các vùng núi ở Việt Nam ,Thái Lan ,Lào, Miến Điện .Thời nhà Đường cũng như các thời trước, nhiều bộ tộc người H'Mông ( người Hán gọi họ là Miêu tộc) có khi hùng mạnh thường tụ quân quấy phá các vùng của người Hán , tương tự các bộ tộc phía bắc như Hung Nô ,Mông Cổ vẫn thường đánh phá vùng biên giới Trung Hoa. 

 

 


 

 

 

 


BÀI 4
9


 

古風其十五

 

CỔ PHONG KỲ THẬP NGŨ

 

 

 

1  燕昭延郭隗,Yên Chiêu diên Quách Ngỗi ,

 遂筑黃金臺。 Toại trúc Hoàng kim đài .

劇辛方趙至, Kịch Tân phương Triệu chí ,

4  鄒衍復齊來。   Trâu Diễn phục Tề lai .

奈何青雲士,   Nại hà thanh vân sĩ ,

棄我如塵埃。     Khí ngă như trần ai .

        珠玉買歌笑,  Châu ngọc măi ca tiếu ,

8  糟糠養賢才。Tao khang dưỡng hiền tài .

        方知黃鵠舉,Phương tri "hoàng hộc cử" ,

10  千里獨徘徊。Thiên lư độc bồi hồi .

 

 

 李白   Lư Bạch
 

 

  

Dịch nghĩa :

    

Cổ phong bài thứ mười lăm

 

           Yên Chiêu là vua nước Yên cho mời Quách Ngỗi đến . Ông đă cho xây dựng chiếc đài bằng vàng để đăi ngộ (bậc hiền tài). Nhờ thế, Kịch Tân ở phía nước Triệu cũng đến đây , Trâu Diễn từ nước Tề cũng quay về lại.( C. 1-4)

           Làm ǵ được đây kẻ sĩ ẩn dật ,ngoài ṿng danh lợi !? . Họ  bỏ quên ta như bụi bặm! Họ  lấy ngọc ngà châu báu mua tiếng cười và lời ca tiếng hát , nhưng nuôi  dưỡng người hiền tài bằng thức ăn nghèo hèn ! (C. 5-8)

            Có biết chuyện " con chim thiên nga bay cao" nhưng đường đi ngàn dặm, một ḿnh ta cứ dùng dằng ,do dự măi.(C. 9-10)

 

 

Tạm dịch thơ:

           

CỔ PHONG BÀI THỨ MƯỜI LĂM

 

      1      Yên Chiêu mời Quách Ngỗi ,

     Cho dựng chiếc đài vàng .

     Kịch Tân phía Triệu đến ,

      4      Trâu Diễn từ Tề sang .

     Làm được ǵ kẻ ẩn ?!

     Bỏ ta như bụi đàng .

            Mua cười ,hát : châu ngọc ,

      8      Nuôi hiền tài :  tồi tàn .

     Có biết chuyện "chim hộc",

10      Bâng khuâng riêng dặm ngàn !

 

 

Chú thích :

 

  -  Quách Ngỗi 郭隗  và Hoàng kim đài 黃金臺:xem CT  về Quách Ngỗi và Hoàng kim đài  bên trên( Bài 33 HÀNH LỘ NAN kỳ nhị ).

  -   Kịch Tân 劇辛 : Kịch Tân là một viên tướng có tài, trước đây ở nước Triệu ,sau được Quách Ngỗi của nước Yên cố vấn cho Yên Chiêu vương mời về Yên .Khi c̣n ở Triệu rất quen biết tướng Bàng Noăn nên thừa cơ tướng Liêm Pha bỏ sang Ngụy nên Yên vương Hỉ muốn đánh Triệu ,hỏi ư kiến Kịch Tân .Tân cho rằng đối phó với tướng Bàng Noăn không khó nên được Yên Chiêu vương cho cầm quân đánh Triệu do Bàng Noăn làm làm tướng lĩnh nhưng bị thua trận. Kịch Tân bị  giết chung số phận cùng hai vạn quân  nước Yên(242 TCN).

  -   Trâu Diễn 鄒衍 : với kế sách do Quách Ngỗi đề ra ,Yên Chiêu vương đă cho dựng "Chiêu hiền đài" (có dát vàng nên c̣n gọi là Hoàng kim đài )để tiếp đón hiền tài đến nước Yên giúp rập . Ngoài Nhạc Nghị , Kịch Tân c̣n có một nhà tư tưởng danh tiếng của phái âm dương gia (305-240 TCN) là Trâu Diễn người nước Tề đến du thuyết ở nước Yên .Chiêu vương đích thân cầm chổi vừa lùi vừa quét tỏ ḷng kính trọng và xin làm đệ tử. Với những hiền tài như thế chỉ trong một thời gian ngắn ,nước Yên trở nên nước mạnh và Yên Chiêu vương có đủ sức để đánh Tề trả mối thù cũ...

  -   nại hà 奈何 : làm sao được ,làm ǵ được ,đối phó như thế nào ....

  -   thanh vân sĩ 青雲士 : kẻ sĩ ở ẩn ,xa rời công danh ,người cao thượng ,người giỏi giang c̣n chờ thời....; trong Truyện Kiều của Nguyễn Du," thanh vân" lại có nghĩa là đường công danh:Thênh thang đường cái ,thanh vân hẹp ǵ - (c.2478) và Kim từ nhẹ bước thanh vân  (c.2867)

  -   khí : bỏ đi ,quên đi, vứt bỏ...

  -   tao khang 糟糠 : bă rượu ,bột tấm cám vụn ,chỉ sự nghèo nàn ,thức ăn tồi tàn của người nghèo,cũng chỉ t́nh nghĩa vợ chồng chung thủy từ lúc c̣n nghèo ăn uống kham khổ...

  -   phương : hướng ,phía ,vuông vức ,phê b́nh ,đơn thuốc,so sánh ,có biết ,bế tắc...

  -   hoàng hộc cử 黃鵠舉 : truyện kể Điền Nhiên là hiền tài của nước Lỗ nhưng không được vua Lỗ trọng dụng nên bỏ sang nước Yên được vua tin tưởng phong tướng giúp vua giữ được

lănh thổ được một thời thái b́nh .Ông thường nói rằng ḿnh ở nước Lỗ ví như con gà nhưng đến nước khác dược dùng ví như con chim hộc vàng (hộc :con thiên nga ,con ngỗng trời...)bay cao. (cử :cất đầu ,ngẩng đầu lên , nổi lên ,bay cao lên...)

  -   bồi hồi 徘徊 : do dự ,dùng dằng ,ḷng bâng khuâng...

 

 * Đây có lẽ đề cập giai đoạn Đường Minh hoàng mê đắm Dương quí phi bỏ bê việc nước,quên hiền tài ,không nghe can gián nên những kẻ sĩ như Lư Bạch lần lượt bỏ đi...

 

 

 

 

 


BÀI 50

 

 

古風其三十一 

 

CỔ PHONG KỲ TAM THẬP NHẤT

 

 

1   鄭客西入關,Trịnh khách tây nhập quan ,

 行行未能已。  Hành hành vị năng dĩ .

   白馬華山君,         Bạch mă Hoa Sơn quân ,

4  相逢平原里。 Tương phùng b́nh nguyên lư .

   璧遺鎬池君,   Bích di Cảo Tŕ quân ,

   明年祖龍死。   Minh niên Tổ long tử .

秦人相謂曰,Tần nhân tương vị viết ,

8  吾屬可去矣。Ngô thuộc khả khứ hĩ .

   一往桃花源,Nhất văng Đào Hoa nguyên ,

10   千春隔流水。Thiên xuân cách lưu thủy .

 

 李白   Lư Bạch
 

 

 

 

Dịch nghĩa :

 

 

Cổ phong kỳ ba mươi mốt.

 

 

       Người khách họ Trịnh từ phía tây đi vào cửa quan ải , cứ đi đi măi vẫn chưa dừng lại.

Có bậc đạo gia từ núi Hoa Sơn cưỡi con ngựa trắng cùng gặp nhau nơi cánh đồng bằng trao cho Cảo Tŕ quân viên ngọc bích và (tin cho biết ) sang năm ông vua thủy tổ (ám chỉ Tần Thủy hoàng ) sẽ mất đi . Người nước Tần đă nói cho biết như thế(và khuyên) tôi cùng thân thuộc

nên rời đi thôi !

 

      Một lần đi qua ḍng nguồn suối Đào Hoa , sẽ được xa cách măi cả ngàn mùa xuân,cứ mặc cho ḍng nước chảy trôi đi (mặc cho sự đổi thay ).

 

 

Tạm dịch thơ :

 

 

CỔ PHONG BÀI THỨ BA MƯƠI MỐT.

 

 1   Khách Trịnh vào ải quan ,

Chưa dừng ,cứ đi măi .

Ngựa trắng Hoa Sơn quân ,

 4   Đồng bằng cùng gặp gỡ .

Đưa ngọc Cảo Tŕ quân ,

Sang năm Tổ long mất .

Báo cho biết : người Tần ,

8   Hăy đi cùng thân thuộc .

Nguồn Đào qua một lần ,

10  Ngàn xuân xa ḍng chảy !

 

 

         Chú thích :

 

  -  quan : cửa ải biên giới ( ải quan 隘關 )

  -  hành hành 行行: cứ đi măi không dừng lại.

  -  dĩ : dừng ,ngưng lại ,đă ,rồi ,băi chức ,làm xong , đó ,ấy.....

   -  Hoa Sơn quân 華山君 : quân : tiếng tôn xưng những bậc bề trên đáng kính trọng .Đây chỉ đạo gia từ núi Hoa Sơn đến.

  -  Tổ long 祖龍 : ông tổ đứng đầu các con rồng ; rồng là biểu tượng người làm vua .Đây chỉ người có công lập nên nhà Tần ,thống nhất Trung Hoa là Tần Thủy hoàng ,xem ḿnh là thủy tổ của nhà Tần giai đoạn mới. Chính sách của nhà Tần dưới thời Tần Thủy hoàng rất khắc nghiệt khiến nhiều người phải trốn lánh lên các rừng sâu hoặc đồi núi xa xôi ,có khi cả một họ, một làng cùng bỏ đi lánh nạn...

  -   vị : lấy lời mà bảo ,rằng ,nói cho biết...

  -   Đào Hoa nguyên 桃花源:Nguồn suối Đào Hoa. Đây là câu chuyện kể của Đào Tiềm (陶潛)  (365 - 427 SCN), hiệu Uyên Minh (淵明), tự Nguyên Lượng (元亮) biệt hiệu là Ngũ Liễu tiên sinh.Ông người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây,T.H. là một trong những nhà thơ lớn của Trung Hoa đă sớm từ bỏ con đường công danh treo ấn từ quan khi làm huyện lệnh Bành Trạch mới tám mươi ngày, để giữ phẩm cách của ḿnh.Bài thơ nổi tiếng của ông là "Quy khứ lai từ" (歸去來辭) và bài kư  "Đào hoa nguyên kư "(桃花源記) hay "Đào nguyên kư". -"Đào nguyên kư" là câu chuyện được Đào Tiềm kể về một người chài cá ở khe núi thấy một bông hoa đào trôi từ khe suối ra.Ông chài bèn chèo thuyền đi theo con suối ,đi măi đến một vùng có thôn xóm có nhiều người sống an nhàn, đơn giản ,không phải lo toan như cách sống theo sự cai trị của triều đ́nh.Hỏi chuyện của họ, ông chài mới biết tổ tiên nhiều đời của những người này vốn ở đất Tần ,nhưng do sự cai trị tàn bạo của vua quan nhà Tần nên họ đem cả họ hàng, làng xóm đến chốn yên b́nh ,thảnh thơi,tự do, xa cách với xă hội cũ. Ông chài ở chơi vài hôm rồi men theo con suối đi về .Sau này ,ông muốn quay trở lại chốn suối nguồn của cánh hoa đào năm xưa nhưng không t́m thấy được nữa.

  -  lưu thủy 流水 : ḍng nước chảy .Cũng chỉ sự biến dịch ,đổi thay .Ở đây ,Lư Bạch muốn nói đến những người sống chốn "Đào nguyên" (Nguồn đào) đă cách biệt với xă hội bên ngoài rất nhiều mùa xuân. Cuộc sống bên ngoài có đổi thay cũng không hề ảnh hưởng cuộc sống an nhàn ,tự do của họ.


 

 

 

 


BÀI 51

 

古風其二十四     

 

CỔ PHONG NHỊ THẬP TỨ

 

 

1   大車揚飛塵,   Đại xa dương phi trần ,

亭午暗阡陌。   Đ́nh ngọ âm thiên mạch .

中貴多黃金,  Trung quư đa hoàng kim ,

4   連雲開甲宅。 Liên vân khai giáp trạch .

路逢鬥雞者,   Lộ phùng "đấu kê giả" ,

冠蓋何輝赫。  Quan cái hà huy hách .

鼻息幹虹蜺,   Tỵ tức cán hồng nghê ,

8   行人皆怵惕。  Hành nhân giai truật dịch .

世無洗耳翁, Thế vô "Tẩy nhĩ ông" ,

10   誰知堯與蹠  Thùy tri Nghiêu dữ Chích !?

 

 

 李白   Lư Bạch
 

 

 

 

Dịch nghĩa :

 

 

Cổ phong bài hai bốn.

 

      Những chiếc xe lớn chạy làm bụi bặm bay thốc lên ! Đến ban trưa ,con đường đi vẫn c̣n u ám (do bụi nhiều).Lớp người sống giữa sự giàu sang, nhiều vàng lắm của ; nhà cửa của họ thuộc loại hạng nhất, chắc chắn, được mở mang xây dựng nhiều như nối liền với tầng mây! Đi trên con đường gặp kẻ chơi đá gà v́ sao được làm quan có lọng che sáng rỡ vẻ hách dịch!? Mũi thở ra như đuôi cầu vồng(cong phổng lên) khiến người đi đường phải hăi sợ !(C.1-8)

 

      Cuộc đời không c̣n có "Ông rửa tai " nên ai biết được đâu là vua Nghiêu ,đâu là đạo Chích ! (C.9-10).

 

 

Tạm dịch thơ :

 

 

CỔ PHONG BÀI THỨ HAI MƯƠI TƯ.

 

1  Xe to thốc bụi bay !

Đến trưa đường u ám .

Giàu sang bạc vàng đầy ,

4  Nối liền mây, nhà lớn .

Kẻ chơi gà ,gặp đây ,

Quan hách dịch che lọng !

Mũi thở chuôi cầu vồng ,

8  Người đi sợ hăi thay !

"Ông rửa tai " không có ,

10   Nghiêu ,Chích ,nào ai hay !?

 

 

Chú thích :

 

   -  dương : thốc lên ,bốc lên,dơ lên ,giương lên,phô trương ,lan ra ,xưng tụng ,khen...

   -  đ́nh ngọ 亭午 : đến ban trưa, đến giữa trưa .

   -  thiên mạch 阡陌 : bờ ruộng ,đường đi nhỏ hẹp ,đường đi phía nam phía bắc ...

   -  trung quư 中貴 : giữa sự sang giàu ,phú quư...

   -  giáp trạch 甲宅 : giáp : đứng hạng đầu mười can ,vỏ ,móng ,chỉ sự chắc chắn...Đây chỉ loại nhà cao to , xây chắc chắn đứng hạng đầu của những người giàu ...

   -  đấu kê giả 鬥雞者: người chơi chọi gà , đấu gà. Ở đây Lư Bạch muốn nói đến Giả Xương

một kẻ chỉ giỏi chơi gà chọi ,mới 13 tuổi đă được Đường Huyền tông ưa chuộng phong cho chức "Đấu kê giả" được mặc triều phục ,đi xe có che lọng ,cấp bậc ngang hàng vơ tướng như Hữu long vơ quân.

  -   huy hách 輝赫 : vẻ mặt sáng rỡ và hách dịch.

  -   truật dịch 怵惕 : dọa nạt ,làm cho kẻ khác sợ hăi ,kinh khiếp .

  -   Tẩy nhĩ ông 洗耳翁 : "Ông rửa tai " chỉ Hứa Do 許由 là một người ở ẩn tinh thông thiên văn ,địa lư ,hiểu rơ nhân t́nh thế thái . Đế Nghiêu 帝堯 (c̣n gọi là Đào Đường Thị 陶唐氏 hoặc Đường Nghiêu 唐堯) là một trong năm vị vua (ngũ đế : Viêm Đế,Hoàng Đế ,Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và Hạ Vũ ) theo huyền thoại Trung Hoa được lên ngôi nhờ việc truyền hiền (truyền ngôi kế vị cho người hiền tài chứ không theo lối cha truyền con nối)nghe tiếng đă cho sứ giả mời Hứa Do để nói việc sẽ truyền ngôi vua cho ông .Hứa Do nghe xong thoái thác chuyện đó ngay , bèn đi xuống suối để rửa tai v́ sợ tai nghe chuyện danh lợi sẽ bị bẩn ! Sào Phủ 巢父cũng là một ẩn sĩ đi chăn trâu ven suối trên vùng núi này hỏi v́ sao Hứa Do đi rửa tai .Nghe chuyện xong ,Sào Phủ bèn dắt trâu lên phía trên ḍng nước để trâu khỏi uống những lời dơ bẩn từ tai Hứa Do rửa đi ! Đó là h́nh ảnh tiêu biểu của những hiền sĩ Trung Hoa lấy chuyện ẩn dật ,xa lánh cơi đời làm vui và không màng chuyện lợi danh phù phiếm trong cuộc sống .

  -  Chích : tức là Đạo Chích 盜蹠 (kẻ trộm đạo tên Chích) c̣n được gọi là Kiệt Chích 桀跖

một nhân vật có lẽ được hư cấu được nhiều sách cổ đề cập cho là sinh sống vào đời Xuân Thu . Sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử (phần :Tạp Thiên nhị thập cửu) cho Đạo Chích là em của Liễu Hạ Huệ ,một người hiền nổi tiếng (c̣n gọi là Liễu Hạ Quư 720-621 TCN  hậu duệ của con trai Lỗ Hiếu Công) nên được gọi là Liễu Hạ Chích  là một tay chuyên đi trộm cướp lại thích việc giết chóc tàn bạo chuyên tụ tập hàng ngàn tên trộm  để đi cướp phá khắp nhiều thành,nhiều nước .Một số học giả lại cho rằng Đạo Chích chỉ là một nhân vật huyền thoại không có thực !

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DƯƠNG ANH SƠN
Sài G̣n,
9/2017

 

 

 

 

 

 

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |          www.ninh-hoa.com