THỜI KỲ
RA GIÚP LÊ LỢI
B̀NH ĐịNH GIẶC MINH
THÀNH CÔNG VÀ LÀM QUAN
(Khoảng 1418 -
1429)
Dương
Anh
Sơn
|
Bài
18 :
HẠ QUY LAM SƠN (KỲ NHỊ)
賀 歸 藍
山 (期二)
Ức tích Lam Sơn ngoạn vũ kinh,
憶昔藍山玩武經
Đương thời chí dĩ tại thương sinh.
嘗時志已在蒼生
Nghĩa kỳ nhất hướng Trung Nguyên chỉ, 義旗一向中原指
Miếu toán tiên tri đại sự thành.
廟算先知大事成
Nhật xuệ nguyệt thành quy đức hóa,
日竁月城歸德化
Hủy thường chùy kế, thức uy thanh.
卉裳榷髻識威聲
Nhất nhung đại định hà thần tốc,
一戎大定何神速
Giáp tẩy cung nang lạc thái b́nh.
甲洗弓囊樂太平
DỊCH THƠ:
Mừng về
Lam Sơn (bài 2)
Lam Sơn nghiền ngẫm sách binh,
Xưa v́ trăm họ sôi kinh bấy giờ.
Trung Nguyên về nghĩa theo cờ,
Sẽ nên việc lớn đoán sơ biết rồi.
Chốn xa theo đức đổi đời,
Búi chùy, áo cỏ tiếng khơi mọi miền.
Gọn nhanh một trận dẹp yên,
Thái b́nh vui hưởng, giáp tên cất vào.
DỊCH NGHĨA:
Nhớ khi xưa nơi đất Lam
Sơn nghiền ngẫm sách binh - Bấy giờ chí đă v́ dân đen trăm họ
rồi - Ngọn cờ nghĩa đă chỉ hướng về Trung Nguyên – Xin quẻ nơi
miếu tổ tiên biết trước việc lớn sẽ thành - Ở nơi cùng trời cuối
đất xa xôi cũng chuyển hóa theo đức - Những người áo cỏ búi chùy
nơi vùng hẻo lánh cũng biết tiếng tăm oai nghiêm mà phục - Một
trận ra quân đă dẹp yên sao mà mau chóng thế! - Rửa binh giáp,
cất cung vào bọc, vui hưởng thái b́nh.
CHÚ THÍCH:
-
憶昔
ức tích: nhớ xưa kia.
-
玩
ngoạn: nghiền ngẫm, thưởng thức, bỡn cợt, quư báu (ngoạn
vũ kinh: nghiền ngẫm đọc kỹ (sôi kinh) kinh thư.
-
蒼生
thương sinh: dân đen, trăm họ, dân chúng.
-
指
chỉ: hướng về, trỏ, chỉ, ngón chân.
-
廟算
miếu toán: xin quẻ nơi tông miếu tiên tổ để làm một
việc quan trọng nào đó.
-
先知
tiên tri: biết trước.
-
日竁月城
nhật xuệ nguyệt thành: nơi mặt trời đào xuống đất (xuệ)
và nơi có thành mặt trăng: ư nói nơi “cùng trời, cuối đất” xa
xôi. (có sách đề là “xuế” hoặc “xuyến”).
-
歸德化
quy đức hóa: đức triều đ́nh tốt đẹp lan tỏa đến miền
xa xôi khiến các nơi này qui thuận.
-
卉裳
hủy thường: áo b ện bằng cỏ;
榷髻
chùy kế: búi tóc h́nh cái chùy. Hai từ này chỉ các bộ
tộc vùng rừng núi hẻo lánh ở xa cũng biết uy danh triều đ́nh (thức
uy thanh).
-
大定
đại định: cuộc tấn công lớn đă b́nh định, dẹp yên bờ
cơi.
-
弓囊
cung nang: cất cung tên vào kho.
Bài
19 :
ĐỀ KIẾM
題 劍
Lam-Sơn tự tích ngọa thần long,
藍山自昔臥神龍
Thế sự huyền tri tại chưởng trung.
世事懸知在掌中
Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh,
大任有歸天啟聖
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong.
昌期一遇虎生風
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỉ,
國讎洗盡千年恥
Kim quỹ chung tàn vạn thế công
金櫃鉖藏萬世功
Chỉnh đốn càn khôn tùng thử liễu,
整頓乾坤從此了
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
世間那更數英雄
DỊCH THƠ:
Đề vào kiếm
Lam Sơn xưa có rồng thần,
Chuyện đời xa biết trong bàn tay thôi.
Giao cho việc lớn: ư trời!
Hổ sinh thành gió gặp thời sáng tươi.
Ngh́n năm thù nước rửa rồi,
Tráp vàng cất giữ muôn đời chiến công.
Đất trời xếp đặt đă xong,
Cơi đời đếm được anh hùng bao lăm.
DỊCH NGHĨA:
Từ xưa, Lam Sơn đă có rồng thần nằm - Chuyện đời xa xăm đă
biết trước như nằm trong bàn tay – Giao cho trách nhiệm lớn lao
đă có trời mở ư cho biết - Gặp thời tươi sáng như hổ sinh thành
gió – Thù nước cả ngàn năm chịu sỉ nhục, đă được rửa sạch rồi –
Công lao muôn đời rốt cùng đă được cất giữ vào tráp vàng - Việc
sắp đặt đất trời đă xong xuôi – Cơi đời đếm được mấy bậc anh
hùng.
CHÚ THÍCH:
-
昔
tích: xưa, trước, đă lâu.
-
懸知
huyền tri: cái biết xa xôi.
-
大任
đại nhiệm: trách nhiệm, đảm trách việc lớn lao
-
歸 quy: về, gom lại, giao về.
-
天啟聖
thiên khải thánh: gọi chung là ư của trời ban xuống.
-
昌
xương: tốt đẹp, sáng tươi, sáng sủa, thịnh vượng.
-
恥
sỉ: nỗi nhục, hổ thẹn.
-
金櫃
kim quỹ: tráp vàng. Hán Cao tổ khi lên ngôi cho ghi
lại công trạng của những người có công lớn cho vào hộp vàng để
ghi nhớ. Đây chỉ công lao to lớn ngàn đời sau ghi nhớ.
-
整頓
chỉnh đốn: sắp xếp.
-
那更數
na cánh sổ: đếm được bao nhiêu đâu.
Bài
20 :
HẠ TIỆP
(KỲ 1)
賀
捷
(一)
(Tân Hợi Thái Tổ chinh Phục Lễ châu)(辛亥太祖征復禮州)
Xuẩn nhỉ man tù cảm khấu biên
蠢爾蠻酋敢寇邊
Tích hung nẫm ác dĩ đa niên.
積凶稔惡已多年
Cửu trùng duệ niệm linh hà tục,
九重睿念忴遐俗
Vạn lư loan dư mạo chướng yên.
萬里鸞輿冒瘴煙
Sơn thú dĩ văn thu Ngụy Bác,
山戉已聞收魏慱
Thần Khuê hựu kiến khắc Yên Nhiên.
宸奎又見刻燕然
Tùng kim tứ hải xa thư nhất,
從今四海車書一
Thịnh đức phong công vạn cổ tiền.
盛德豐功萬古前
DỊCH THƠ:
Mừng
thắng trận (bài 1)
Cơi bờ xuẩn quấy lũ man,
Chứa hung, dồn ác nhiều năm lắm rồi!
Chín tầng hiểu tḥi xa xôi,
Xe vua khí độc vẫn xuôi dặm ngàn.
Quân thâu Ngụy-Bác t́n loan,
Yên-Nhiên đă thấy khắc Thần Khuê đây.
Bốn phương là một từ nay,
So muôn đời trước đức dày, công to!
DỊCH NGHĨA:
Bọn tù trưởng biên giới xuẩn ngốc chúng bây dám làm chuyện
loạn quấy - Chất hung dồn chứa các ác đă nhiều năm rồi – Vua ở
chín tầng sáng suốt hiểu thấu thói tục vùng xa xôi - Đường muôn
dặm kiệu loan vẫn đi đến nơi có nhiều chướng khí độc hại – Đă
nghe tin quân đồn trú vùng núi đă thu lại được vùng Ngụy Bác –
Núi Yên Nhiên đă thấy khắc công sao Thần Khuê - Từ nay bốn biển
kiểu xe và kiểu chữ đă là một - Đức thịnh và công lớn hơn hẳn
muôn đời trước.
CHÚ THÍCH:
-
蠻酋
man tù: tù trưởng bộ lạc ít người ở biên giới.
-
爾
xuẩn nhĩ: lũ, bọn bay ngu xuẩn.
-
敢寇
cảm khấu: dám làm loạn, dám cướp.
-
九重
cửu trùng: chín bệ; chỉ nơi vua thiết triều ban lệnh.
-
睿
duệ niệm: thông, hiểu, hiểu thấu một cách sáng suốt (Kinh
Thư: Duệ tác thánh (tinh thông là thánh - Hồng Phạm))
-
遐俗
hà tục: thói tục, tập tục của các vùng xa xôi mà xưa
thường gọi là man di.
-
鸞輿
loan dư: xe vua đi.
-
冒瘴煙
mạo chướng yên: dám đến nơi có hơi độc (chốn rừng rú).
-
山戉
sơn thú: lính đồn trú, lính trú đóng ở vùng biên giới
hoặc vùng cao xa xôi cách trở.
-
魏慱
Ngụy Bác: Điền Thừa Tự được làm phiên trấn giữ Ngụy
Bác nhưng làm phản, chống triều đ́nh nên đích thân vua Đường đem
quân đi dẹp. Đây chỉ Châu Phúc Lễ có Đèo Cát Hăn cầm đầu các bộ
tộc chống đối triều đ́nh nên Lê Lợi đem quân thâu phục năm Tân
Hợi.
-
奎
Khuê: vị sao đứng đầu 28 ngôi sao (nhị thập bát tú)
chỉ vua Lê Lợi (Thần).
-
燕然
Yên Nhiên: Bảo Hiến thời Hậu Hán đánh đuổi quân Hung
Nô thắng lợi cho ghi khắc, ghi khắc công lao ở một ngọn núi
ngoại Mông. Đây chỉ việc Lê Lợi cho khắc văn bia ở Lai Châu và
núi Thác Bờ ghi chiến công (Hoài Lai Cổ Bi và Hoài Tráng Cổ Bi)
-
câu 7: từ nay bốn biển xe chữ thống nhất làm một. Chỉ đất
nước tự chủ, thống nhất.
-
豐功
phong công: công to lớn như núi.
Bài thơ này Nguyễn Trăi làm sau trận đánh dẹp Đèo Cát Hăn năm
1432 do đích thân Lê Thái Tổ cầm quân. Vùng đất Mường Lễ của tù
trưởng Đèo Cát Hăn được đặt tên là Châu Phục Lễ tức vùng Lai
Châu bây giờ.
Dương
Anh
Sơn
Giáo Sư Triết học
Trung học Ninh Ḥa