UNG
THƯ VÚ
(Lung Cancer)
Bs Lê
Ánh
|
I – TỔNG QUAN
Ung thư vú (Breast Cancer) là một bệnh lý ác tính xuất hiện trong các
tế bào ở mô của vú. Những tế bào này thường phát sinh từ các ống dẫn
sữa (duct) hoặc từ thuỳ (lobe) đến tiểu thùy (lobule) ở vú, sau đó có
thể lây lan trong các mô hoặc cơ quan và các bộ phận khác của cơ thể
qua hệ thống hạch bạch huyết (lymph nodes and vessels).
Cơ thể của vú
Ung thư vú thường xảy ra ở phụ nữ và nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo
tuổi tác. Theo thống kê, dưới 10% ung thư vú xảy ra trước tuổi 40, 25%
xảy ra trước tuổi 50 và trên 50% xảy ra sau 50 tuổi. Ung thư vú rất
hiếm gặp ở nam giới. Ở Hoa Kỳ, cứ 8 người phụ nữ có 1 người sẽ bị ung
thư vú (khoảng 12%) trong đời của mình.
Trong năm 2016, có khoảng 246..660 trường hợp mới ung thư vú mới ở
giai đoạn trễ của phụ nữ tại Hoa Kỳ cùng với 61.000 trường hợp mới ở
giai đoạn đầu (in situ) ung thư vú.
Những phụ nữ trong hạn tuổi 40-69 đi chụp phim vú (mammogram) ít nhất
mỗi 2 năm.
Tại Mỹ, với phụ nữ, ung thư vú là loại ung thư xảy ra nhiều nhất, gây
tử vong đứng hàng thứ nhì chỉ sau ung thư phổi, và là nguyên nhân tử
vong nhiều nhất cho người phụ nữ trong hạn tuổi 45 đến 59, tuổi đời
sống đã ổn định, chúng ta đang vui sống. Trong năm 2012, ước tính sẽ
có thêm 230.000 trường hợp ung thư vú mới được khám phá, và khoảng
40.000 người sẽ mất mạng vì nó.
Theo thống kê của Cơ quan Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật (CDC) ở
Hoa Kỳ thì trong năm 2014 phát hiện:
236.968 phụ nữ và 2.141 đàn ông tại Hoa Kỳ được chẩn đoán ung thư vú.
41.211 phụ nữ và 405 đàn ông tại Hoa Kỳ mất mạng vì ung thư vú.
II- AI DỄ BỊ UNG THƯ VÚ?
Tuy cũng có những người bị ung thư vú dù không mang yếu tố nguy hại
nào cả, song có nhiều yếu tố được xem khiến người phụ nữ sau sẽ dễ bị
ung thư vú:
1- Tuổi tác: càng cao tuổi càng dễ có ung thư vú, nhất là sau tuổi 50.
2- Phái tính: phụ nữ bị ung thư vú nhiều hơn gấp 100 lần đàn ông.
3- Từng bị ung thư vú: người đã từng bị ung thư sau dễ bị ung
thư ở vú bên kia.
4- Gia đình: nếu có người thân trong gia đình bị
ung thư vú, nguy cơ ung thư vú tăng cao. Yếu tố di truyền (BRCA - tức
là chữ tắt của BReast CAncer gene): Phần lớn phụ nữ mắc bệnh ung thư
vú không có yếu tố di truyền, và bệnh sử gia đình cũng không có ai mắc
bất cứ loại ung thư nào cả. Tuy nhiên, có khoảng 15% phụ nữ mắc bệnh
ung thư vú mang những yếu tố di truyền về ung thư gọi là BRCA 1 hay
BRCA 2. Những phụ nữ này có những vấn đề đặc biệt riêng trong việc
truy tầm, phòng ngừa, cũng như chữa trị ung thư vú, không nằm trong
phạm vi của bài viết này. Nếu quý vị cần biết rõ hơn về yếu tố di
truyền BRCA 1 hay BRCA 2 thì quý vị có thể vào website sau đây của
phòng thí nghiệm Myriad:
http://www.myriadtests.com/brac.htm
để đọc
bài viết bằng tiếng Anh. Nói chung, phần lớn phụ nữ có yếu tố di
truyền này có nhiều người trong gia đình mắc bệnh ung thư vú và ung
thư buồng trứng.
5- Chủng tộc: tất cả các sắc dân đều có thể bị ung thư vú, nhưng tỉ
lệ ung thư vú cao nhất ở người da trắng.
6- Phóng xạ (ionizing radiation): những người phải chữa bằng tia phóng
xạ chiếu vào ngực với lượng cao (để chữa ung thư hạch chẳng hạn) sau
sẽ dễ bị ung thư vú.
7- Yếu tố nội tiết: một số yếu tố nội tiết khiến người phụ nữ sau dễ
bị ung thư vú, như người có kinh sớm (trước 11 tuổi) và mãn kinh trễ
(sau 54 tuổi); người không sanh nở, hoặc mang thai lần đầu muộn sau
tuổi 30; người không cho con bú; người dùng thuốc kích thích tố
estrogen và progesterone sau khi mãn kinh.
8- Béo phì: phụ nữ cao, phụ nữ béo mập dễ bị ung thư vú hơn người
thấp, người không béo mập.
9- Rượu: uống rượu nhiều sẽ làm tăng tỉ lệ bị ung thư vú.
Trong các yếu tố kể trên, ba yếu tố đầu (tuổi tác, từng bị ung thư vú,
gia đình có người bị ung thư vú) được xem là các yếu tố nguy hại (risk
factors) quan trọng nhất.
Ngược lại, thường xuyên vận động sẽ giúp chúng ta giảm nguy cơ bị ung
thư vú.
III- ĐỊNH BỆNH
Ung thư vú có thể khiến vú trông thay đổi về khối lượng hoặc hình dạng
so với bên kia, da vú ửng đỏ, lún xuống, núm vú chảy nước, máu, hoặc
lõm vào trong, thay vì lồi ra ngoài bình thường như trước.
Nhưng ung thư vú, thường như con ác thú, nằm chờ trong rừng, im hơi
lặng tiếng, không gây triệu chứng gì cả, và ta tình cờ tìm thấy nó
dưới dạng một khối lạ sờ thấy bằng tay, hoặc bằng những phương pháp
chụp phim vú, siêu âm.
1-Phim vú cho thấy khối lạ (mass) trong vú
Phim vú (mammogram) rất tốt để khám phá ung thư, nhưng đến 20% trường
hợp ung thư vú, phim vú không thấy được khối ung thư có đó (tức trong
5 người bệnh ung thư vú, phim có thể sót mất 1 người). Cho nên, bác sĩ
không nên chỉ cho chụp phim vú thôi mà không thăm khám bằng tay.
Trường hợp khối lạ trong vú sờ thấy bằng tay, mà không thấy được trên
phim vú, chúng ta làm thêm siêu âm vú để xác định.
Nếu chúng ta nghi ngờ khối lạ trong vú có thể là ung thư, bước kế
tiếp, chúng ta nhờ bác sĩ giải phẫu đâm kim vào chỗ có khối lạ, lấy ra
chút mô đem thử xem nó có đúng thực ung thư hay không. Phương pháp này
gọi là biopsy.
2-Ung thư đã tiến triển đến đâu?
Sau khi tìm thấy ung thư, ta cần biết nó đã tiến triển đến đâu, còn
nằm tại vú, hay đã lan ra những hạch quanh vú, hoặc đã theo máu đi xa,
vì trong sự chữa trị, ném chuột sợ vỡ đồ, ta xuống tay nhẹ hay nặng
tùy vào mức độ tiến triển của nó.
IV- CÁC GIAI ĐOẠN CỦA UNG THƯ VÚ
Việc tìm hiểu này gọi là "staging", được thực hiện bằng nhiều phương
pháp: thử máu, chụp phim, mổ xem các hạch bạch huyết (lymph nodes)
quanh vú (nách, thành ngực) đã có tế bào ung thư đến thăm hay chưa,...
Chúng ta nhờ bác sĩ chuyên khoa ung thư (Oncology) làm việc này.
Ung thư vú tiến triển qua 4 giai đoạn: từ giai đoạn 0 (stage 0) khi
ung thư chưa sờ thấy, nhưng tình cờ khám phá được bằng phim chụp vú,
sang những giai đoạn I, II, III và IV (stages I, II, III and IV). Các
giai đoạn I, II, và III, là những giai đoạn ung thư đã sờ thấy được,
hoặc đã lan ra các hạch quanh vú. Giai đoạn IV là giai đoạn cuối, khi
ung thư đã tiến triển quá xa, theo máu chuyển di đến các cơ quan khác,
như gan, phổi, xương, óc, mắt, da.
1)
Giai đoạn 0 (stage 0): khi ung thư còn bị giới hạn trong ống dẫn sữa
(ductal in situ) mà chưa ăn vào nhũng mô vú hay mô nâng đỡ bên ngoài
ống dẫn sữa. Cơ hội có thể chữa lành của thời kỳ này từ 90% đến 100%
bằng giải phẫu toàn phần vú, hay một phần vú cộng với xạ trị
(radiation). Có nhiều trường hợp, bác sĩ còn cho bệnh nhân dùng thêm
thuốc loại kích thích tố như tamoxifen.
2)
Giai đoạn I (stage I): khi ung thư còn nhỏ hơn 2 cm và chưa lan vào
hạch nách. Cơ hội sống còn sau mười năm là khoảng 80% đến 90%. Cách
chữa cũng tương tự như thời kỳ 0, nhưng một số bệnh nhân có thể được
khuyên nên sử dụng thêm hóa chất trị liệu (chemotherapy). Ngoài ra,
các phụ nữ đã tắt kinh còn có thể được dùng một loại thuốc gọi là
Aromatase Inhibitor như Arimidex, Letrozole, hay Aromasin thay vì
tamoxifen. Đây cũng là thuốc loại kích thích tố.
3)
Giai đoạn II (stage II): khi ung thư từ 2 cm đến 5 cm và chưa lan vào
hạch nách, hay nhỏ hơn hơn 5 cm và đã lan vào một số hạch nách. Cơ hội
sống còn sau mười năm tùy thuộc vào kích thước của ung thư và bao
nhiêu hạch bị lây lan. Cách chữa cũng tương tự như thời kỳ I, nhưng
phần lớn bệnh nhân được khuyên nên sử dụng thêm hóa chất trị liệu
(chemotherapy), nhất là những ung thư lớn hay đã vào hạch nách.
4)
Giai đoạn III (stage III): khi ung thư lớn hơn 5cm hay đã lan vào
nhiều hạch nách nhưng chưa lây lan đi xa. Cơ hội sống còn sau mười năm
tùy thuộc vào kích thước của ung thư và bao nhiêu hạch bị lây lan. Đây
là thời kỳ khá trễ và có cơ hội mắc bệnh ung thư vú trở lại hay lây
lan qua các bộ phận khác rất cao. Cách chữa thường bắt đầu bằng hóa
chất trị liệu (chemotherapy), sau đó là giải phẫu và xạ trị.
5)
Thời kỳ IV (stage IV): ung thư đã lây lan ra tới các bộ phận như gan,
phổi, xương, não, v.v. Ở thời kỳ này, trừ những trường hợp rất đặc
biệt, bệnh nhân có nguy cơ mất mạng vì bệnh trong vòng năm năm rất
cao. Cách chữa thường là với hóa chất hay thuốc loại kích thích tố.
Như ta thấy trên đây, ung thư vú được khám phá càng sớm bao nhiêu thì
cơ hội sống còn càng cao bấy nhiêu. Do đó, tất cả phụ nữ nên quan tâm
đến vấn đề truy tầm ung thư vú và theo lời khuyên truy tầm ung thư vú
như trên.
Khám phá ung thư sớm trong giai đoạn 0, và chữa trị đúng, tỉ lệ sống
sót 5 năm (5-year survival) lên đến 99%. Khám phá ung thư muộn trong
giai đoạn IV, tỉ lệ sống sót 5 năm chỉ được 14%. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của việc truy tìm ung thư bằng phim chụp vú mỗi 1-2 năm.
IV- CHỮA TRỊ
Ung thư vú chữa bằng nhiều cách: giải phẫu (surgery), phóng xạ trị
liệu (radiation therapy, dùng tia phóng xạ đốt các tế bào ung thư),
kích thích tố (hormonal therapy) và bằng các chất thuốc hóa học
(chemotherapy). Những cách chữa trị trên được dùng riêng rẽ, hoặc phối
hợp, tùy vào nhiều yếu tố: ung thư đã tiến triển đến giai đoạn nào,
tuổi tác, tình trạng sức khỏe của người bệnh, đồng thời cũng dựa vào ý
muốn
của họ.
Khi ta khám phá ung thư vú thực sớm, lúc ung thư chưa sờ thấy được
bằng tay, tình cờ khám phá nhờ phim chụp vú (stage 0, carcinoma in
situ), ung thư chữa bằng giải phẫu, cắt bỏ hoàn toàn (total
mastectomy) hoặc một phần (partial mastectomy) bên vú có ung thư.
Trong các trường hợp chỉ cắt một phần vú, cho chắc ăn, ta thường chữa
thêm với phóng xạ trị liệu, vì phóng xạ trị liệu sau khi giải phẫu sẽ
làm giảm nguy hiểm bị ung thư tái phát rất nhiều.
Giải pháp mổ cắt bỏ hoàn toàn vú nhiều phụ nữ nay không mấy tán thành,
vì sau khi mổ, sẽ... không được đẹp; những người muốn đẹp như trước,
lại cần thêm một cuộc giải phẫu nữa để tái tạo vú (breast
reconstruction).
Khi ung thư vú, lúc ta khám phá, đã sờ thấy được, hoặc đã lan ra các
hạch quanh vú (giai đoạn I, II và III), cách chữa gồm nhiều phối hợp:
giải phẫu cắt bỏ vú có ung thư (cả vú hoặc một phần vú), cắt bỏ các
hạch quanh vú bị ung thư tới thăm, phóng xạ trị liệu sau khi giải
phẫu, và chữa bằng các chất thuốc hóa học. Hóa chất trị liệu được dùng
sau hay trước khi mổ sạch ung thư thuộc thời kỳ I, II, hay III, đã
được chứng minh là có thể gia tăng cơ hội chữa lành bệnh cho nhiều
bệnh nhân. Nhiều trường hợp còn cần chữa thêm với các thuốc thuộc loại
kích thích tố (như thuốc tamoxifen).
Có thêm phương pháp chế ngự mục tiêu (targeted therapy)
Những yếu tố di truyền hay kết quả của những yếu tố di truyền trong cơ
thể như những yếu tố gây ra bệnh ung thư có thể trở thành mục tiêu trị
liệu. Chẳng hạn như yếu tố di truyền Her 2 neu (hay erbB2) là yếu tố
tăng trưởng các tế bào biểu bì, trong đó có các tế bào ung thư vú.
Ngoài yếu tố Her 2 neu, còn có yếu tố Her 1 hay erbB cũng có ảnh hưởng
trên sự tăng trưởng biểu bì. Những tế bào ung thư vú có sự phát triển
bất thường của Her 2 neu là những loại ung thư vú nguy hiểm nhất.
Thuốc Herceptin (trastuzumab) là một loại thuốc mới đặc biệt được dùng
cho những bệnh nhân bị loại ung thư vú có sự phát triển bất thường của
yếu tố Her 2 neu ( khoảng 25% tất cả bệnh nhân ung thư vú) . Thuốc
Herceptin là một chất kháng thể chống lại những sản phẩm của Her 2
neu, và tiêu diệt những tế bào ung thư có yếu tố Her 2 neu. Khi sử
dụng thuốc này, cơ hội sống còn của bệnh nhân sẽ tăng lên, nhất là khi
được sử dụng vào trường hợp ung thư đã vào hạch nách hay đã lây lan
đến các cơ phận khác. Herceptin là thuốc được truyền vào tĩnh mạch.
Một trong những phản ứng phụ là có thể làm bắp thịt tim yếu đi; do đó,
chức năng tim của bệnh nhân phải được theo dõi kỹ càng trong khi trị
liệu với thuốc này.
Thuốc Tykerb (lapatinib) vừa mới được nghiên cứu và cho thấy có kết
quả tốt cho bệnh nhân mắc bệnh ung thư vú lọai có yếu tố Her 2 neu
nhưng khi dùng thuốc Herceptin lại không có hiệu quả hay đã mất hiệu
quả sau một thời gian dùng thuốc. Thuốc Tykerb chống lại cả hai yếu tố
Her 2 và Her 1. Đây là loại thuốc uống, tiện lợi hơn cho bệnh nhân, và
có ít phản ứng phụ về tim hơn. Phản ứng phụ thường gặp là tiêu chảy và
bị các thay đổi về da.
Khi ung thư vú đã tiến triển quá xa, tức đã theo máu di chuyển đến các
cơ quan khác, như gan, phổi, xương, óc, mắt, da (metastatic cancer,
stage IV), cách chữa chính là dùng thuốc thuộc loại kích thích tố, các
chất thuốc hóa học, và phóng xạ trị liệu.
V- PHÒNG NGỪA
1-Tự khám vú (breast self-exam) hằng tháng: Tự khám vú bắt đầu ở tuổi
20. Mỗi tháng, ngay sau khi hết chu kỳ kinh nguyệt, tất cả phụ nữ nên
biết tự khám vú của mình mỗi tháng một lần để phát hiện u bướu vú sớm.
Đứng trước tấm gương soi lớn, nhin hai bên vú trong gương, hai tay để
dọc theo hai bên thân người, sau đó đưa cả hai cánh tay cao lên đầu,
nhìn xem hình dáng vú hai bên có gì thay đổi không.
Phương cách tự khám vú hằng tháng
Tiếp theo là nằm xuống, nằm ngửa, để một tay dưới đầu, tay kia khám
vú đối diện bằng cách để bàn tay nằm phẳng lên thành ngực dưới vú, rồi
luồn các ngón tay (ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út) lên trên vú nửa
bên trong, rồi nửa bên ngoài. Kiểm tra núm vú bằng đầu ngón tay. Sau
cùng khám nách xem có cục hạch nào không. Làm như vậy cho vú bên kia.
Nếu phát hiện có gì bất thường, chẳng hạn như có cục tròn ở vú thi đi
khám bệnh để bác sĩ xem xét đánh giá những điều bất thường ngay.
Xem xét và tìm những bất thường như:
Lồi lõm, cục u
Da dầy cộm hay có vẩy, nhất là đầu và núm
vú.
Nước hay máu chảy ra từ đầu vú
Những thay đổi khác thường khác.
2- Khám vú do chuyên viên y tế (CBE hay Clinical
Breast Examination):
Quý bà nên yêu cầu bác sĩ hay y tá đã được huấn
luyện khám vú cho mình mỗi năm một lần. Nếu khi tự khám vú thấy có gì
lạ, quý vị nên yêu cầu bác sĩ khám lại.
3- Chụp quang tuyến vú (Mammogram): Nếu trên 40 tuổi, quý bà nên chụp
mammogram mỗi năm một lần, dù không có sự bất bình thường gì khi khám
vú. Phụ nữ có mẹ hay chị em ruột mắc bệnh ung thư vú, hay có yếu tố di
truyền như BRCA gene có thể cần truy tầm ung thư vú trước tuổi 40.
Những phụ nữ có BRCA gene có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú và ung thư
buồng trứng rất cao, và có thể phải được truy tầm ung thư vú ở tuổi
trẻ hơn, và có thể phải sử dụng cách chụp bằng từ trường tức MRI
(Magnetic Resonance Imaging) để việc khám phá ung thư vú được hiệu quả
hơn. Những người này còn có thể nghĩ đến chuyện cắt bỏ cả hai vú và
buồng trứng để ngừa hai loại ung thư này hữu hiệu hơn. Họ cần phải suy
nghĩ và thảo luận rất kỹ lưỡng với bác sĩ điều trị hay chuyên viên về
di truyền trước khi có những quyết định này.
Nếu những phương pháp truy tầm này khám phá ra những thay đổi bất
thường của vú, tùy theo trường hợp, các bác sĩ sẽ cho bệnh nhân thực
hiện các thử nghiệm khác như siêu âm (ultrsound), MRI, hay sinh thiết
(biopsy), v.v… để định bệnh.
4- Hạn chế uống rượu, nếu đang uống rượu, nên dứt bỏ rượu càng tốt.
5- Vận động cơ thể. Cố gắng vận động 5 ngày trong tuần, mỗi lần tập vận
động khoảng 30 phút, hoặc nhiều hơn càng tốt.
6- Giới hạn việc dùng kích thích tố sau thời kỳ mãn kinh.
7- Giữ trọng lượng cơ thể ở mức bình thường.
Những việc làm nêu trên là lời khuyên cho tất cả phụ nữ thuộc các
chủng tộc khác nhau. Theo một nghiên cứu, phụ nữ Việt có nguy cơ mắc
bệnh ung thư vú ở tuổi trẻ hơn. Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có nghiên
cứu nào xem xét vấn đề tuổi nào thích hợp nhất để bắt đầu chụp quang
tuyến vú mammogram cho phụ nữ gốc Việt. Chụp mammogram ở tuổi trước 40
có lẽ cũng không được hiệu quả lắm, vì phần lớn phụ nữ ở tuổi này có
tế bào vú rất nhiều nang chứa nhiều nước, và khi chụp quang tuyến, sẽ
che lấp những tế bào ung thư nếu có. Do đó, những phụ nữ trẻ tuổi cần
theo dõi vú bằng phương pháp tự khám vú cũng như nhờ bác sĩ khám vú
cẩn thận hơn.
VI- KẾT LUẬN
Ung thư vú có thể chữa lành được nếu truy tầm sớm và chữa trị đúng
cách. Xin quý phụ nữ nhắc nhở các bác sĩ gia đình thực hiện những
chương trình truy tầm ung thư vú cho quý vị.
Tài liệu tham khảo:
1-www.mayoclinic.org> . . .>Diseases and Conditions
2-https://store. mayo
clinic/productd/bookDetails.cfm?mpid+141-chan-doan-phac-do-dieu-tri
3-
https://cumargold.vn/news/trieu-chung-chan-doan-phac-do-dieu-tri
4-https://suckhoe365.biz/chan-doan-dieu-tri-va-phong- benh-ung- thu
5-www.mayo
clin.org/healthy-life-lifestyle/women-health/in-depth/breast-cancer=prevention/art-20044676
6-https://www.cdc.gov/cancer/dcpc/data/women.htm
Bác
sĩ LÊ
ÁNH
10/2017
|