Tin buồn đưa đến, Thầy Cung Giũ Nguyên đă ra đi! Vẫn biết cuộc đời một con
người, chuyện kết cuối phải đến là b́nh thường; nhưng không biết sao trong
ḷng tôi có một cái ǵ đó khang khác. Hiện tượng hụt hẫng và hơi stress
khi ngồi nhớ đến Thầy. Với số tuổi 100, Thầy Cung Giũ Nguyên, ít ai trên
đời này thọ được như thế, h́nh ảnh của Thầy là một tấm gương soi, một phấn
đấu, một loạt những sinh hoạt đầy sức sống cho đến ngày cuối cùng! Cả đời
Thầy là một loạt tṛ chơi đầy thú vị!
Trang viết nầy, tôi đặc biệt gọi Trưởng Cung Giũ Nguyên là Thầy v́ trong
nhiều lănh vực, Vịt Bể, xứng đáng bậc thầy của rất nhiều người. Với tư
cách là một Hướng Đạo Sinh có thời gian sinh hoạt ở Đạo Khánh Ḥa, h́nh
ảnh Thầy Cung Giũ Nguyên càng đậm nét trong tôi – Sóc Lanh Lợi – Tên rừng
của tôi được Đạo Trưởng Nguyễn Thám, 1962, đặt tên trong một cuộc trại dài
ngày của Tráng Đoàn, Trưởng Vĩnh Hầu là Tráng Trưởng. H́nh ảnh và lời nói
cũng như những bài giảng về Ngành Tráng của Trưởng Cung Giũ Nguyên thời
bấy giờ là con đường sáng dẫn dắt tôi vào với cuộc đời.
Đạo Khánh Ḥa có một Đạo Quán ngay cạnh Trường Lê Quí Đôn do Thầy Cung Giũ
Nguyên là Hiệu Trưởng. Có những chúa nhật đến sinh hoạt trong Đạo Quán nầy
và thỉnh thoảng được Tr Vịt Bể đến thăm qua. H́nh dáng ấy rất gần gũi và
cũng rất tôn kính. Không biết tại sao, ḷng tôn kính của tôi đối với Thầy
Nguyên rất đậm đà mà nhiều khi tôi có cảm giác thần tượng! Với tuổi Tráng
sinh, trước một con người có đầy đủ Trí Thức, tri thức, một nhà văn nổi
tiếng trong thế giới nói tiếng Pháp, một trong bốn Trưởng có bằng rừng
Gilwell đầu tiên, một Trại Trưởng Bạch Mă và sau nầy là Trại Trưởng Trại
Huấn Luyện Tùng Nguyên Đà Lạt... Th́ c̣n ǵ nữa mà không phải là thần
tượng chứ!
Sinh tại Huế, 1909, Họ Hồng, gốc Phúc Kiến, tổ tiên lập nghiệp tại Việt
Nam kể từ Thế Kỷ thứ 19. Gia đ́nh cha mẹ nghèo và đông con, Tốt nghiệp
Quốc Học Huế. Năm 1928, Thầy Cung Giũ Nguyên được bổ nhiệm Trợ Giáo tại
Nam tiểu Học Nha Trang. Hoạt động chính trị một thời, nhưng sau 1941 trở
lại Nha Trang dạy học. Thầy phụ trách Việt Văn, Hán Văn, Pháp Văn, La tinh,
anh văn, sử địa, văn học, triết học tại tất cả các trường Trung Học,
College de Nha TRang, Phansicô. Từ năm 1955 đến 1975 là Hiệu Trưởng Trường
Trung học Lê Quí Đôn Nha Trang. Ông cũng là Giáo Sư Thỉnh Giảng tại Đại
Học Cộng Đồng Duyên Hải. Sau 1975 Thầy được mời là Giáo Sư Thỉnh Giảng môn
ngôn ngữ và văn chương Pháp tại khoa Pháp ngữ Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha
Trang.
Đó là ta mới chỉ nói về hoạt động hàng ngày của Thầy Nguyên chứ chưa nói
về những sáng tác mà tác phẩm và tác giả được Hàn Lâm Viện Pháp trân trọng
ghi công. Những tác phẩm của Thầy được các nhà xuất bản Việt, Pháp, Đức,
Anh, Canada, Mỹ phát hành! Về tiếng Việt có các tác phẩm: Một người vô
dụng (Tin Đức Thư Xă, Saigon-1930), Nhân t́nh thế thái (Tập
truyện ngắn, Phổ thông thư xă, Gia Định- 1931), Nợ văn chương ( Nhà
in Châu Tịnh, Vinh-1934), Những ngày phiêu bạt (Kư), Nửa gánh tang
bồng, Một chuyến về... Tác phẩm viết tiếng Pháp: Thầy Cung Giũ Nguyên nổi
tiếng và được kính nể trong văn giới Pháp vào những năm 1950-1960 như: Le
fils de la Babaine (tiểu thuyết, Paris-1956- Dịch sang tiếng Việt tựa
là Kẻ thừa tự ông Nam Hải, Nhà xuất bản Văn Học, Hainoi 1955), Le
Domaine Maudit (tiểu thuyết, Fayard, Paris-1961), tiểu luận
Volontés d’existense (France-Asie, Saigon 1954; dịch sang tiếng Việt là
Những ư chí sinh tồn), Le Boujoum( do Roman Dallas, Texas USA tái
bản 2002; dịch sang Việt Ngữ là Thái Huyền), Tập Thơ Texte Profane (Bản
Văn Trần tục).
Ngoài ra Thầy c̣n là một nhà Báo, đă viết hàng ngàn bài báo đăng trong và
ngoài nước VN. Ông đă cùng với Raoul Serène -Tiến Sĩ khoa học, từng là
Giám Đốc viện Hải Dương Học Đông Dương - Chủ trương ra nguyệt san Tạp Chí
Tuổi Trẻ (Le Cahiers de le Jeunesse, 1938-1940); Ở Nha Trang, là
Chủ Bút Nguyệt San Song Ngữ Tương Lai Tạp Chí, Nhatrang 1939 và Chủ Bút
nhật báo Châu Á Buổi Chiều (le soir d’Asie, Saigon 1939-1942); Chủ
Bút Tuần báo Báo Chí Viễn Đông (Le presse
d’Extrême-Orient-Saigon 1954...
Là một Hướng Đạo Sinh đầu tiên của Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam, Trưởng
Cung Giũ Nguyên đă tham gia sớm nhất Trại Trường Quốc Tế Gilwell mà sau
nầy Trưởng chính là Phụ Tá Trại Trưởng Gilwell. Năm 1944 đảm nhiệu khóa
huấn luyện chót ở Trại Trường Bạch Mă thay cho Trưởng Tạ Quang Bữu bân
việc riêng. Nam 1958, là Trại /Trưởng Trại Huấn Luyện Quốc Gia Tùng Nguyên
tại Đà Lạt. Nơi đây cũng là cái nôi của hầu hết các trưởng Bằng Rừng phục
vụ phong trào từ 1956-1975. Những bài thuyết giảng, những kinh nghiệm,
những tác phẩm về Hướng Đạo của Trưởng Vịt Bể để lại cho chúng ta rất
nhiều, nhất là những bài viết cho Ngành Tráng. Trong Trại Thẳng Tiến 8,
2006 vừa qua, chúng ta thấy có một cuốn sách dày 477 trang, mang tên Câu
Chuyện Ngành Tráng, tác giả là Trưởng Cung Giũ Nguyên được lưu hành (Cung
Giu Nguyen Center, Dalas, Texas USA xuất bản). Trong cuốn sách nầy có
nhiều tiết mục và nhiều chương rất hay, có thể là sách gối đầu giường của
các Trưởng vào đời, của những ai đang là Trưởng Niên.
Chúng ta thử đọc lại một đoạn ngắn trong thư của Trưởng Vịt Bể gởi đến
Trại Thẳng Tiến 8, năm 2006 để thấy rỏ con người thật của một Huynh Trưởng
kỳ cựu có cái nh́n như thế nào đối với Phong Trào Hướng Đạo. Đây là nét
chấm phá rỏ nhất của một Trại Trưởng “Khai quốc công Thần” Hướng Đạo Việt
Nam của chúng ta:
“...Như các bạn
cũng biết, một bộ đồng phục nói lên một người theo phong trào Hướng Đạo
nhưng không đủ để làm nên một Hướng Đạo thật sự, cũng như tục ngữ đánh
thức người mê muội nơi dấu chỉ, danh từ, phù hiệu, h́nh thức, hào dáng,
bao b́. Cái áo ḍng không làm nên thầy tu. Ta thử hỏi một cách nôm ma hay
trắng trợn, khi ta lột đồng phục ra, ta không c̣n phải theo luật Hướng Đạo
nữa chăng? Một nhà tu hành, không thể cởi áo ḍng - v́ trời quá nóng bức
và nói "Thôi, ta nghỉ tu vài bửa để đi tắm biển đă". Không thể so sánh
hay đặt ngang hàng sắc phục bậc tu hành với áo quần Hướng Đạo Sinh, dù cho
hai hạng người đều có điểm chung, là đă tuyên xưng giao ước tu thân. Hướng
Đạo Sinh có vẽ tự do hơn nhiều với đồng phục, cái vơ bọc của ḿnh. Chúng
ta thường quên là áo quần Hướng Đạo bất cứ ai cũng có thể mặc; xưa nay
không thiếu ǵ người hay đoàn thể, chẳng phải Hướng Đạo hay xi-cút ǵ cả,
cũng từng dùng áo quần, mủ bốn u, khăn quàng cổ như Hướng Đạo Sinh vậy,
mà chẳng luật pháp nào ngăn cấm, trừng trị, chẳng có bia miệng nào chê
cười. Điều không phải dễ làm như với thứ đồng phục mà một nhà nước hay xă
hội trật tự quy định cho một tư cách, một chức năng, chức vụ, hay địa vị
nhất định, như đồng phục của cảnh sát, công an, quân nhân, quan ṭa, thầy
tu v.v. Cái gọi là đồng phục Hướng Đạo từ nguyên thủy không hề có giá trị
về tư cách mhư các đồng phục nói trên. Kiểu áo quần Hướng Đạo dùng, không
có giá trị ǵ đối với những người chung quanh mà chỉ do sự đ̣i hỏi của các
sinh hoạt của Hướng Đạo Sinh.
Áo quần phải dùng thứ vải dày, như áo quần của người lao động ,
trong nhà máy hay ngoài đồng áng, v́ phần lớn sinh hoạt của người Hướng
Đạo là ở ngoài trời, nơi bờ biển, đồng hoang, rừng núi. Áo quần phải có
khả năng che chở con người khi có tiếp cận bất ngờ với gai gốc, đá sỏi,
trên đường thám du hay trong các tṛ chơi, nhỏ , lớn. Áo, khi cần, phải đủ
sức chịu đựng để góp phần trong việc làm cáng chở người bị thương từ nơi
chẳng có phươmg tiện nào khác. Sau đó đồng phục mới dùng luôn cho các buổi
hội họp, lễ nghi thuần túy Hướng Đạo, và khó mà chấp nhận lối dùng một số
đồng phục Hướng Đạo đi làm hàng rào danh dự chào với bàn tay ba ngón một
quan lớn triều đ́nh nào đó, không phải Hướng Đạo (trừ khi như đă nói, quan
lớn ấy đến dự một lễ Hướng Đạo như Trại Họp Bạn chẳng hạn). Tương tự như
vậy, khăn quàng cổ của Hướng Đạo không thể làm bằng tơ lụa cho sang hay
đẹp khi chỉ biết nghĩ đến việc tŕnh diễn, phô trương, mà Hướng Đạo thường
nghĩ đến ích lợi khi cần hơn. Màu sắc của khăn, cũng như màu viền của khăn,
vàng, lục, đỏ hay tím, đă được dùng để phân biệt các liên đoàn, đạo, nói
lên ngành, Ấu, Thiếu, Tráng của cơ quan Hướng Đạo Quốc Tế. Khăn quàng
Hướng Đạo có thể có những công dụng khác, như khi đi trại nhiều ngày, gặp
rủi ro, thiếu hay hết dụng cụ, có thể dùng làm dây treo một cánh tay bị
găy hay bị thương. Đối với người Việt, một khăn quàng, khi lỡ không có nồi
(và không kiếm được ống tre) có thể dùng để nấu cơm được. Các bạn làm
được việc ấy không? Hay đă thử làm lần nào chưa? Có ai đó, trong số các
bạn, để đùa chơi, sẽ cười, và la lên : Xưa quá rồi, từ lâu chúng tôi theo
chế độ ăn uống Tây phương, không c̣n nghĩ đến chuyện ăn cơm và nhất là
nấu cơm nữa. Nấu cơm có nồi điện rồi. Đi trại, chỉ đem theo bánh ḿ và
thức ăn liền (fast foods) không có vấn đề nấu nướng dơ bẩn, mất th́ giờ.
Nếu có ư kiến như vậy, tôi muốn hỏi bạn ấy dùng th́ giờ để làm ǵ ở trại
gọi là Hướng Đạo? Tôi nhận thấy không theo kịp thời thế. Xă hội công nghệ
hóa, hiện đại hóa làm cho các trang lịch sử tiến hoá loài người bị lật
quá nhanh, đến rách cả lề. Tôi không c̣n ngạc nhiên khi nghe nói chuyện
một người Việt, ngũ tuần, tốt tướng, bụng phệ, khi thấy đĩa rau muống
luộc trên bàn ăn, hỏi chủ nhà, cũng người Việt, một bạn lâu đời nhưng
không được may mắn dự phần cảnh "phồn vinh giả tạo":"Rau ǵ lạ vậy, tôi
chưa bao giờ ăn thứ nầy."....
Trưởng Vịt Bể đă nằm xuống, đă ĺa rừng với số tuổi 100! Đây có phải là
một “Lảo Ngoan Đồng” của phong trào Hướng đạo không? Dĩ nhiên là nói theo
một nét nào đó th́ sự trẻ trung của người Hướng Đạo, tính vui tươi lành
mạnh đă kéo dài tuổi thọ! Vịt Bể đă ra khỏi rừng chơi cuộc đời. Chắc chắn
Trưởng Vịt Bể cũng đă là kim chỉ nam cho những ai từng là học tṛ của Thầy
về rất nhiều lănh vực từ Hướng Đạo và ở ngoài đời, trong văn học... Nhớ về
Thầy Cung Giũ Nguyên để chúng ta có được một hănh diện là Việt Nam đă sản
sanh được một trong những danh nhân. Phong trào Hướng đạo hănh diện có
được một HĐS tiêu biểu!
letamanh
(Sóc Lanh Lợi)
Tháng 11 năm 2008