ừa
qua trên trang baotiengdan có đăng bài “ Hiệp định Genève
(20/07/1954) không đề cập đến tổng tuyển cử” (1)của tác giả Trần Gia
Phụng. Trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, Đảng cộng sản
Việt Nam bảo là Hiệp Định Genève có quy định Tổng Tuyển cử th́ người dân
cũng tin như vậy chứ người dân (kể cả nhiều trí thức xhcn) nào thấy “mặt
dọc, mặt ngang” của Bản Hiệp định quy định Tổng Tuyển cử như thế nào và
nào ai biết Phái đoàn nào kư và Phái đoàn nào không kư vào Hiệp định.Tôi
hằng ao ước được đọc nguyên văn Bản Hiệp định Genève chỉ bằng tiếng Việt
mà thôi. Rất may là trong một lần dạo mua sách cũ trên vỉa hè đường
Hoàng Hoa Thám, Nha Trang, tôi đă mua được cuốn ĐÔNG DƯƠNG 1945-1973 của
các tác giả Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường tŕnh bày. Cuốn sách này
do nhóm Đối Diện xuất bản vào năm 1973 (nhóm Đối Diện được nhiều người
mệnh danh là nhóm “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Trước 30/04/1975,
nhóm Đối Diện có cho xuất bản nguyệt san mang tên ĐỐI DIỆN. Sau
30/04/1975 đổi tên là ĐỨNG DẬY. ĐỨNG DẬY được vài năm th́ chính
quyền cộng sản đá cho một cú chuyển thành BẤT TOẠI luôn!). Trong cuốn
ĐÔNG DƯƠNG 1945-1973 có đăng toàn bộ các văn kiện Hiệp định liên quan
tới việc giải quyết chiến tranh tại Đông Dương qua các Hội nghị: GENÈVE
1954 và 1962, PARIS 1973, VẠN TƯỢNG 1973.
Ở trang b́a cuối cuốn sách Đông Dương 1945-1973, nhóm Đối Diện có
những lời châm chọc chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa: “ Gần 6 tháng đă qua
từ ngày Hiệp định Pa ri được kư kết. Nhưng cho tới nay, “một trong hai
bên miền Nam Việt Nam” đă tuyệt nhiên không cho ai được phép ấn hành
xuất bản, phổ biến toàn văn Hiệp định. Đó là dấu hiệu chứng tỏ hùng hồn
nhất rằng đối với bên nào sự vi phạm Hiệp định Pa ri đă là cả một chủ
trương. Chính v́ muốn cho người dân miền Nam Việt Nam ra khỏi t́nh trạng
chỉ có thể đọc Hiệp định Pa ri bằng bản in quá sang trọng của Mỹ hay bản
in quá b́nh dân của (…) mà chúng tôi đă mạn phép – và v́ những “lư do dễ
hiểu” đă cố t́nh không xin phép – các tác giả tập tài liệu “Đông
Dương/ 1945-1973” để công bố bản thảo tập tài liệu này. Mong các bạn đó
cũng niệm t́nh tha thứ.
Công bố đầy đủ các tài liệu pháp lư liên hệ tới chiến
tranh Đông Dương từ 1945 tới nay khách quan mà nói là một công việc đáng
tuyên dương công trạng trước cả… Bộ Ngoại giao VNCH. Nhưng xin từ khước
trước mọi thứ huy chương tặng thưởng. Chỉ sẳn sàng dành một số cho Bộ
Ngoại giao sử dụng với giá thường lệ đối với các công sở, nghĩa là giá
gấp đôi. Ông Quản thủ Văn khố Bộ Ngoại giao lo mua nhanh kẻo hết.”
Hiệp định Genève 1954 với vấn đề Tổng Tuyển cử
“ Hội nghị Genève 1954 lúc khai mạc vào ngày 25-4-1954, Ngũ Cường định
bao biện giải quyết cả vấn đề Triều Tiên lẫn Đông Dương. Cứ một hôm bàn
về Triều Tiên lại một hôm bàn về Đông Dương. Nhưng các cuộc thảo luận về
thống nhất Triều Tiên trong Hội nghị này không đưa đến kết quả nào, nên
nay nói đến Hội nghị Genève 1954, người ta thường chỉ nghĩ tới một Hội
nghị về Đông Dương.
Hội nghị khai mạc từ 26-4-1954, nhưng các phiên họp về Đông Dương chỉ
thực sự bắt đầu từ 8-5-1954 với sự tham dự của 9 phái đoàn: Pháp, Anh,
Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Cộng, Cam Bốt, Ai Lao và 2 phái đoàn của hai
chính phủ ở Việt Nam: Chính phủ Quốc gia Việt Nam (Bảo Đại) và Chính phủ
VNDCCH (Hồ Chí Minh).
Các Văn kiện được kể là văn kiện Hiệp định trong Hội nghị này gồm có:
1--Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam.
2- Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Ai Lao.
3- Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Cam Bốt.
4- Tuyên bố Cuối cùng của Hội nghị.
Bản Tuyên bố Cuối cùng tuy được xem như là tuyên cáo của Hội
nghị, nhưng không mang chữ kư của bất cứ một phái đoàn nào.
Ngoài 4 văn kiện kể trên, có 2 văn kiện khác đă được 2 Phái đoàn
đưa ra trong Hội nghị nhằm xác định lập trường riêng của ḿnh. Đó là:
1-Tuyên ngôn của Phái đoàn Quốc gia Việt Nam.
2-Tuyên ngôn của Phái đoàn Hoa Kỳ.
Cả hai Phái đoàn Quốc gia Việt nam và Hoa Kỳ đă không kư vào
bất cứ một văn kiện nào của Hội nghị Genève 1954” (2)
Hiệp định đ́nh chỉ chiến sự ở Việt Nam gồm 6 chương, 47 điều được
“ Làm tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954, lúc 24 giờ bằng tiếng Pháp và
tiếng Việt Nam; cả hai bản đều có giá trị như nhau”(3).
Về phía Pháp “ Thay mặt Tổng Tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông
Dương: Thiếu tướng Henri Deltiel” kư.
Về phía VNDCCH : “Thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam:
Thứ trưởng Bộ Quốc pḥng nước VNDCCH Tạ Quang Bửu” kư.
Chương II, điều 14 của Hiệp định : “ Những biện pháp chính trị và
hành chính trong hai vùng tập hợp, ở hai bên giới tuyến quân sự tạm
thời:
“ Trong khi đợi Tổng Tuyển cử để thực hiện thống nhất nước Việt
Nam, bên nào có quân đội của ḿnh tập hợp ở vùng nào theo quy định của
Hiệp định này th́ bên ấy sẽ phụ trách quản trị hành chính ở vùng ấy”(4)
Toàn văn Hiệp định khi nhắc đến Tổng Tuyển cử, chỉ sơ sài có bấy
nhiêu ấy mà thôi, không ấn định rơ ràng hai bên phải tổ chức bầu cử ra
sao? Không có những điều khoản chi tiết về Tổng Tuyển cử.
Trong Tuyên bố Cuối cùng việc Tổng Tuyển cử được nhắc đến: “Hội
nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính
trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và
toàn vẹn lănh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự
tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng
Tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.
Để cho việc lập lại ḥa b́nh tiến triển đến mức cần thiết cho
nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ư muốn, cuộc Tổng Tuyển cử sẽ tổ
chức vào tháng 7- 1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại
biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đă nói
trong Hiệp định Đ́nh chỉ Chiến sự. Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1955, những
nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để
thương lượng về vấn đề đó”(5)
Tuyên ngôn của Phái đoàn Việt Nam (ngày 21 tháng 7 năm 1954).
Nói đến Hiệp định Đ́nh chỉ Chiến sự ở Việt Nam năm 1954 mà không
nhắc đến Tuyên ngôn của Phái đoàn Việt Nam là một thiếu sót lớn.Trưởng
Phái đoàn Quốc gia Việt Nam là Bác sĩ Trần Văn Đỗ. Toàn văn Tuyên ngôn:
“Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đă đưa ra đề nghị nhằm thực hiện một
cuộc đ́nh chiến mà không phân chia nước Việt, dù chỉ là tạm thời bằng
việc giải giới các lực lượng chiến đấu sau khi rút về khu vực đóng quân,
càng hẹp càng hay, của mỗi bên; và bằng sự thiết lập việc kiểm soát tạm
thời của Liên Hiệp quốc trên toàn lănh thổ Việt Nam, trong khi chờ đợi
văn hồi trật tự và ḥa b́nh để dân Việt có thể quyết định vận mệnh ḿnh
bằng Tổng Tuyển cử tự do.
Phái đoàn Việt Nam phản đối việc bác bỏ mà không cứu xét đề nghị ấy-
đề nghị độc nhất tôn trọng nguyện vọng dân tộc Việt Nam.
Phái đoàn tha thiết yêu cầu Hội nghị chấp thuận nhất là vấn đề phi
quân sự hóa và trung lập hóa các giáo khu miền Trung châu Bắc Việt. Phái
đoàn long trọng phản đối việc kư kết hấp tấp thỏa hiệp ngừng chiến do 2
cơ quan Tư lệnh Tối cao Pháp và Việt Minh mà thôi, trong khi Bộ Tư lệnh
Pháp chỉ huy quân đội Việt Nam do một sự ủy quyền của Quốc trưởng Việt
Nam, hơn nữa rất nhiều điều khoản của thỏa hiệp nói trên mang nặng những
mối nguy hại cho tương lai chính trị của dân tộc Việt Nam
Phái đoàn long trọng phản đối việc thỏa hiệp đ́nh chiến phó nhượng
cho Việt Minh cả những vùng mà quân đội Việt Nam c̣n đóng quân. Những
khu vực này rất cần thiết để bảo vệ cho Việt Nam khỏi bị cộng sản xâm
nhập. Trong thực tế, thỏa hiệp c̣n đi đến chỗ tước của Việt Nam cái
quyền bất khả xâm phạm để tổ chức pḥng thủ của ḿnh ngoài sự duy tŕ
một quân đội ngoại quốc trên lănh thổ ḿnh.
Phái đoàn long trọng phản đối việc Bộ Tư lệnh Pháp, mặc dù không
được sự thỏa thuận trước của Phái đoàn Việt Nam đă tự tiện ấn định ngày
Tổng Tuyển cử. Việc này có tính cách chính trị rơ rệt.
V́ thế cho nên Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một
cách chánh thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách kư kết Hiệp định
cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt.
Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho
ḿnh quyền tự do hoàn toàn hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của
dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, Tự do
cho xứ sở(6)
Tuyên ngôn của Phái đoàn Hoa Kỳ liên quan đến Tổng Tuyển cử.
Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ là Bedell Smith đă tuyên bố: “ Về đoạn
trong bản Tuyên ngôn của Hội nghị nói đến Tuyển cử tự do ở Việt Nam,
Chính phủ tôi muốn lập rơ lập trường của ḿnh từng được bày tỏ trong một
Tuyên cáo ở Hoa thịnh đốn ngày 29 tháng 6 năm 1954, như sau:
“Đối với một nước bị phân chia trái với ư muốn của những dân tộc
ấy, chúng tôi sẽ tiếp tục cố thực hiện thống nhất cho họ bằng Tổng Tuyển
cử tự do, đặt dưới quyền kiểm soát của Liên Hiệp quốc để cuộc tuyển cử
được diễn ra một cách ngay thẳng”(7).
Kết luận
Bản Tuyên bố Cuối cùng của Hội nghị Genève đưa ra mốc thời gian là
tháng 7 năm 1956 sẽ Tổng Tuyển cử, nhưng Tuyên bố cuối cùng không mang
chữ kư của bất cứ một phái đoàn tham dự Hội nghị. Một tác giả đă nhận
định: “Vấn đề Tổng Tuyển cử dự trù năm 1956 chỉ là nói miệng với nhau
(oral statements) và không có chữ kư (unsigned document) của bất cứ phái
đoàn nào, nó không có nhiều giá trị về mặt pháp lư. Trên thực tế cuộc
Tổng Tuyển cử tại Việt Nam năm 1956 không được các cường quốc quan tâm
kể cả Nga và Trung cộng, người ta chỉ muốn một Hiệp định chấm dứt chiến
tranh.
Thứ hai nó không ấn định rơ ràng hai bên phải tổ chức bầu cử ra
sao? Không có những điều khoản chi tiết về Tổng Tuyển cử. Nó ngụ ư hai
bên Bắc và Nam tự giải quyết lấy vấn đề tùy theo thiện chí của hai bên,
hoàn toàn không mang tính mệnh lệnh, quy định phải thực hiện, nói chung
mơ hồ”(8)
Và Phái đoàn Quốc gia Việt Nam đă “ long trọng phản đối việc Bộ Tư
lệnh Pháp, mặc dầu không được sự thỏa thuận trước của Phái đoàn Việt
nam, đă tự tiện ấn định ngày Tổng Tuyển cử. Việc này có tính cách chính
trị rơ rệt”.
Việc chia cắt đất nước dù chỉ tạm thời là hoàn toàn đi ngược lại với
nguyện vọng của người dân Việt Nam.
CHÚ THÍCH:
1-
https://baotiengdan.com/2018/07/30/hiep-dinh-geneve-20-7-1954-khong-de-cap-den-tong-tuyen-cu/
2- Đông Dương 1945-1973, trang 27-28
3- Cuối Hiệp định ghi: “làm tại Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 lúc 24
giờ”. Hiệp định về Việt Nam được Pháp và VNDCCH kư kết lúc 3 giờ 15 sáng
21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở điện Vạn Quốc ở Genève vẫn được giữ nguyên
ở khắc 12, đêm 20 tháng 7. Phái đoàn Quốc gia Việt Nam (Bảo Đại) và Phái
đoàn Hoa Kỳ không kư vào Hiệp định (xem Đông Dương 1945-1973 , trang 11)
4,5,6,7: Đông Dương 1945-1973, trang 34; 53; 55-56; 58
8-https://vivi099.wordpress.com/2015/10/21/chuyen-tong-tuyen-cu-thong-nhat-hai-mien-1956/