|
Tuyển
Tập:
LIÊU
TRAI
CHÍ
DỊ
GS
Đàm
Quang
Hưng
Giáo
Sư Toán
Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas
457.
ĐIỀN TỬ
THÀNH
Khoáng
dã vô nhân nguyệt tự minh
Hà lai
mao ốc khổ ngâm thanh
Tư thân
chích tận thiên hàng lệ
Bất thức
đồng hương Lô Thập Huynh
457.
GẶP
HỒN CHA
Cuối
triều Minh, ở huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô, có nho sĩ
Điền Tử Thành, có vợ họ Đỗ, và một trai sơ sinh tên Điền
Lương Cử. Mẹ trẻ của Tử Thành là Điền lão phu nhân vẫn còn
tại thế.
Một hôm, Tử Thành có việc phải đi thuyền trên hồ Động Đình,
thuộc tỉnh Hồ Nam. Gặp bão, thuyền bị đắm, Tử Thành chết
đuối. Nghe tin, Đỗ thị đau đớn lắm, uống thuốc độc tự tử,
chết theo chồng. Được tin vợ chồng Tử Thành đã chết, Điền
lão phu nhân bèn tới nhà Tử Thành đem Lương Cử về nuôi.
Lương Cử rất thông minh. Được bà nội cho đi học, Lương Cử
học rất giỏi.
Hai mươi năm
sau.
Lương Cử thi
đậu tiến sĩ, được triều đình bổ đi làm phụ tá cho quan tuần
vũ họ Thái ở Hồ Bắc. Năm ấy, Thái công được triều đình giao
cho việc cai trị cả hai tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam.
Năm sau.
Thái công phái Lương Cử đi Hồ Nam thu thuế. Khi đi qua chỗ
cha bị chết đuối trên hồ Động Đình, Lương Cử động lòng
thương cha, khóc rống lên, rồi quay về Hồ Bắc, trình với
Thái công rằng mình không có tài thu thuế. Giận quá, Thái
công giáng Lương Cử xuống chức huyện thừa, đặt dưới quyền xử
lý của quan tể huyện Hán Dương. Thấy thế, Lương Cử bèn nạp
đơn xin từ chức nhưng Thái công không thuận, ép phải đi Hán
Dương nhậm chức. Bất đắc dĩ, Lương Cử phải tuân thượng lệnh,
nhưng khi tới Hán Dương, Lương Cử chỉ đi du ngoạn, không
thiết chi đến việc trị dân.
Rằm tháng
tám năm ấy, Lương Cử chèo thuyền đi chơi trên hồ Động Đình.
Tối đến, Lương Cử ghé thuyền vào bến, lên bờ đi tản bộ dưới
ánh trăng.
Chợt nghe
thấy tiếng sáo vi vu, Lương Cử tiến bước về phía có tiếng
sáo. Đi được chừng nửa dặm, bỗng thấy mình lọt vào một
khoảng đồng không mông quạnh, rồi thấy ở đằng xa có gian nhà
cỏ, ánh lửa lập loè, Lương Cử bước tới coi. Dòm qua khe cửa,
Lương Cử thấy ở trong nhà có ba người ngồi trên ba chiếc
chiếu, một thiếu niên xấp xỉ hai mươi, tay cầm ống
sáo đưa lên môi thổi, một ông lão trên dưới thất
tuần, nhắm mắt lắng tai nghe, và một nho sĩ, trạc
ngoại tam tuần, quay mặt vào tường suy nghĩ.
Nghe thiếu
niên thổi xong khúc nhạc, ông lão mở mắt, vỗ tay, còn nho sĩ
vẫn trầm tư như không nghe thấy gì. Chợt ông lão nói với nho
sĩ:"Lô Thập Huynh! Huynh trầm tư như thế thì chắc là
đã nghĩ ra một bài thơ hay! Vậy xin huynh hãy ngâm cho mọi
người cùng thưởng thức!" Chẳng khách sáo, nho sĩ lấy giọng
mà ngâm:
Mãn giang phong nguyệt lãnh thê thê
Sấu thảo linh hoa hóa tác nê
Thiên lý vân sơn phi bất đáo
Mộng hồn dạ dạ Trúc kiều tê
nghĩa là:
Dưới hồ trăng gió lạnh căm
Trên đồi hoa cỏ tháng năm dãi dầu
Mộng hồn vạn dặm về đâu?
Đêm đêm bay đến Trúc cầu xóm tây!
Nghe giọng ngâm đầy vẻ bi thương, ông lão cười mà nói:"Lô
Thập Huynh! Huynh lại giở cái vẻ bi thương ngày trước ra
rồi!" Ngưng một lát để rót rượu uống, ông lão lại nói:"Lão
phu không thể họa được bài thơ này của huynh! Vậy lão phu
xin hát một khúc để quý vị đưa cay!"
Nói xong,
ông lão cất giọng ồ ề, hát khúc Lan Lăng Mỹ Tửu của
Lý Bạch, khiến ai cũng phải cười. Cười xong, thiếu niên
đứng dậy, nói:"Chắc cũng sắp hết đêm rồi. Để cháu chạy ra
ngoài xem trăng đã xế đến đâu?" Ra ngoài, chợt nhìn thấy
Lương Cử dòm qua khe cửa, thiếu niên vỗ tay mà nói: "Chào
nhân huynh. Phải chăng nhân huynh đã dòm thấy cái tác phong
điên cuồng của mấy người trong nhà này?" Rồi thiếu niên đưa
tay mời Lương Cử vào nhà. Lương Cử chắp tay vái chào ông lão
và nho sĩ. Ông lão chắp tay đáp lễ, còn nho sĩ thì chỉ đưa
mắt nhìn Lương Cử với vẻ cao ngạo. Ông lão bảo Lương Cử ngồi
vào chiếu của thiếu niên, rồi rót một chén rượu mời Lương
Cử. Cầm chén, thấy lạnh, Lương Cử đặt chén xuống chiếu,
không uống. Biết ý, thiếu niên bèn đốt sậy khô lên mà hâm
nóng rượu để mời Lương Cử. Ông lão hỏi:"Quý khách họ tên
chi?" Lương Cử đáp:"Bản nhân họ Điền, tên Lương Cử!"
Hỏi:"Quý quán ở đâu?" Đáp:"Bản nhân quê ở huyện Giang Ninh,
tỉnh Giang Tô" Ông lão nói:"Quê gia phụ cũng ở đó. Đó là nơi
chôn rau cắt rốn của con cháu dòng họ Giang nhà lão
phu!" Rồi Giang lão chỉ thiếu niên mà giới thiệu:"Đây
là nho sinh Đỗ Dã Hầu, người tỉnh Giang Tây!" Sau
cùng, Giang lão chỉ nho sĩ mà giới thiệu:"Còn đây là Lô
Thập Ông, người cùng làng với quý khách đó!" Nghe Giang
lão giới thiệu, Lương Cử hỏi Thập Ông:"Thưa tiên
sinh, quý xá ở thôn nào? Tiên sinh tài hoa như thế mà sao
bản nhân không được nghe tiếng?" Thập Ông đáp:"Bản
nhân bỏ nhà, lang bạt đã từ lâu, trong họ không ai được tin
tức gì. Bây giờ nói ra, cũng chẳng ích chi!"
Nghe thấy
thế, Giang lão xua tay mà nói:"Lô Thập Huynh! Gặp quý
khách, đáng lẽ huynh nên uống rượu, nói chuyện vui, chứ cứ
nhắc đi nhắc lại những chuyện bi thảm xa xưa thì có ích gì?"
Uống xong ngụm rượu, Giang lão lại nói:"Bây giờ lão phu đề
nghị chúng ta nên chấp thuận luật chơi sau: Mỗi người gieo 3
xúc xắc, lấy số điểm gieo được mà làm 3 câu thơ, gồm 2 câu 7
chữ và 1 câu 5 chữ. Câu đầu phải tận cùng bằng ba chữ
điểm tương đồng (điểm bằng nhau), câu chót phải tận cùng
bằng ba chữ hỷ tương phùng (mừng gặp nhau) và phải
dùng một điển cố hợp cách! Ai không làm được, sẽ bị phạt
rượu!" Rồi không chờ ai chấp thuận, Giang lão thò tay vào
túi, lấy 3 xúc xắc ra gieo. Được một con yêu (1), một con
nhị (2), một con tam (3), Giang lão liền ngâm:"Tam so
yêu, nhị, điểm tương đồng, Gà gạo ba năm hẹn Phạm công, Bè
bạn mừng tương phùng" Giang lão dùng điển cố sau: Phạm
công, tức Phạm Thức, đi thăm người bạn thân ở xa là Trương
Thiệu. Khi chia tay, Phạm công hẹn ba năm nữa, sẽ trở lại
thăm bạn. Đúng ngày, Trương Thiệu sai gia nhân làm cơm với
thịt gà để chờ bạn. Quả nhiên hôm ấy Phạm công tới thăm
Trương Thiệu.
Giang lão
trao xúc xắc cho Dã Hầu gieo. Được hai con nhị (2), một con
tứ (4), Dã Hầu nói:"Bản nhân không đọc sách, chỉ được nghe
người ta thuật chuyện nên chỉ biết vài điển cố bình dân,
mong quý vị đừng cười" Rồi Dã Hầu ngâm:"Tứ so hai nhị,
điểm tương đồng, Bốn người tụ nghĩa Cổ Thành trung, Anh em
mừng tương phùng" Dã Hầu dùng điển cố sau: Thời Tam
Quốc, có ba người là Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, kết
nghĩa anh em với nhau ở một vườn đào trong Cổ Thành.
Dã Hầu trao
xúc xắc cho Thập Ông gieo. Được hai con yêu (1), một
con nhị (2), Thập Ông liền ngâm:"Nhị so hai yêu,
điểm tương đồng, Lã Hướng hai tay bế lão ông, Cha con mừng
tương phùng" Thập Ông dùng điển cố sau: Lã Hướng làm
quan trong triều đình nhà Tấn. Một hôm, cha mất tích, Lã
Hướng sai gia nhân đi tìm nhưng không thấy. Ba năm sau, một
hôm, trên đường từ triều đình về nhà, gặp một ông lão đi
thất thểu, Lã Hướng chú mục nhìn thì nhận ra là cha mình. Lã
Hướng bèn oà lên khóc, rồi giơ hai tay bồng cha về nhà.
Thập Ông trao
xúc xắc cho Lương Cử gieo. Cũng được hai con yêu (1), một
con nhị (2) như Thập Ông, Lương Cử ngâm:"Nhị so
hai yêu, điểm tương đồng, Mao Dung hai đĩa đãi Lâm Tông, Chủ
khách mừng tương phùng" Lương Cử dùng điển cố sau: Thời
Đông Hán, hai cao sĩ Mao Dung và Lâm Tông rất thân nhau và
kính trọng nhau. Một hôm, Lâm Tông tới thăm Mao Dung. Thấy
bạn sai gia nhân làm thịt gà, Lâm Tông đinh ninh là để đãi
mình. Thế nhưng, đến bữa ăn, chỉ thấy bạn đãi mình có hai
đĩa rau, Lâm Tông lấy làm lạ. Về sau, khi biết Mao Dung sai
làm thịt gà để dâng mẹ, Lâm Tông càng kính trọng Mao Dung
hơn.
Thấy cuộc
chơi đã đến hồi kết thúc, Lương Cử bèn đứng dậy, xin cáo
biệt. Thấy thế, Thập Ông cũng đứng dậy, bước tới gần
Lương Cử mà nói: "Câu chuyện cố hương, còn đang nói dở, sao
đã bỏ về? Có điều muốn hỏi, xin hãy dừng chân!" Lương Cử bèn
ngồi xuống chiếu mà hỏi:"Chẳng hay tiên sinh muốn hỏi điều
chi?" Thập Ông đáp:"Trên hai chục năm về trước, bản
nhân có người bạn thân là Điền Tử Thành, bị chết đuối trên
hồ Động Đình. Nay nghe khách tự khai cũng là người họ Điền,
nên muốn hỏi xem khách có họ hàng chi với Điền Tử Thành
chăng?" Lương Cử giật mình mà đáp:"Đấy chính là gia phụ. Thế
ra tiên sinh là bạn thân của gia phụ đó sao?" Thập Ông
gật đầu mà đáp:"Hồi còn ít tuổi, lệnh nghiêm với bản nhân
thân nhau lắm. Khi người bị chết đuối, chỉ có một mình bản
nhân nhìn thấy. Rồi bản nhân vớt được di thể của người, đem
mai táng ở bên bờ hồ này" Lương Cử bật khóc mà nói:"Xin tiên
sinh làm ơn chỉ cho tiểu sinh biết mộ gia phụ ở chỗ nào?
Tiểu sinh xin ghi nhớ công ơn của tiên sinh suốt đời!"
Thập Ông nói:"Mộ lệnh nghiêm dễ tìm lắm! Từ gian nhà cỏ
này đi về hướng nam đúng trăm bước thì gặp hai chục ngôi mộ,
nhưng chỉ có một ngôi có lau mọc ở trên. Sáng mai, nếu quý
khách tìm thấy ngôi mộ ấy và đếm được đúng mười cây lau mọc
ở trên thì ngôi mộ ấy chính là mộ lệnh nghiêm!" Lương Cử
khóc lóc, cám ơn Thập Ông, rồi cúi chào mọi người mà
trở ra bờ hồ.
Xuống
thuyền, Lương Cử cứ trằn trọc suốt đêm, chẳng sao ngủ được.
Nhớ lại giọng điệu Thập Ông nói chuyện với mình, thấy
dường như Thập Ông muốn bày tỏ tình thương, Lương Cử
liền nghĩ chắc phải có nguyên do. Nóng lòng, chẳng thể chờ
sáng, Lương Cử bèn vùng dậy, chỉnh lại y phục rồi trở lại
gian nhà cỏ.
Tới nơi,
thấy gian nhà đã biến mất, chỉ còn lại có cái nền, Lương Cử
kinh hãi quá, bèn cứ theo lời chỉ dẫn của Thập Ông mà
đi tìm mộ cha.
Từ nền nhà,
Lương Cử đi đúng trăm bước về hướng nam thì thấy quả có hai
chục ngôi mộ, nhưng chỉ có một ngôi có lau mọc ở trên. Lương
Cử bèn bước tới cạnh mộ mà đếm số cây lau, thì thấy quả có
mười cây. Lúc ấy, Lương Cử mới chợt nghĩ ra rằng vì di thể
Thập Ông nằm dưới ngôi mộ có mười cây lau mọc ở trên
nên Giang lão mới gọi Thập Ông là Lô Thập
Huynh (Ông Bạn Mười Lau) và Thập Ông
chính là cha mình.
Lương Cử bèn
lang thang quanh vùng hỏi chuyện. Chợt thấy một thôn nhỏ,
Lương Cử vào hỏi xem những người có di thể nằm dưới các ngôi
mộ ấy là những ai? Thôn dân đáp rằng trên hai chục năm về
trước, trong thôn có phú ông họ Cao, hay làm việc nghĩa. Một
hôm, có một chiếc thuyền bị đắm trên vùng hồ gần thôn, Cao
ông liền bỏ tiền ra thuê thợ lặn vớt được hai chục xác nạn
nhân, rồi thuê người mai táng mỗi xác dưới một ngôi mộ.
Lương Cử bèn
về Hán Dương xin từ chức, rồi đi thuê người bốc mộ cha, đưa
về Giang Ninh.
Tới nơi,
Lương Cử vào nhà chào Điền lão phu nhân rồi thuật lại đầu
đuôi câu chuyện và trình rằng mình đã thuê được người bốc mộ
cha về quê. Điền lão phu nhân bèn sai gia nhân làm lễ cải
táng cho Tử Thành.
Lương Cử hỏi
Điền lão phu nhân xem diện mạo cha mình ra sao? Nghe Điền
lão phu nhân mô tả, Lương Cử thấy cha mình giống hệt Thập
Ông.
Lương Cử
hỏi:"Thưa bà nội, Đỗ Dã Hầu là ai?" Điền lão phu nhân
đáp:"Đỗ Dã Hầu là trưởng nam của Đỗ ông, anh ruột của mẹ
cháu. Năm Dã Hầu mười chín tuổi, đi thuyền trên hồ Động Đình
cũng bị đắm thuyền mà chết. Sau khi Dã Hầu chết, Đỗ ông bỏ
quê cũ, di cư sang ở tỉnh Giang Tây!" Lương Cử lại hỏi:"Thưa
bà nội, sau khi thân mẹ cháu qua đời thì di thể được an táng
ở đâu?" Điền lão phu nhân đáp:"Ở xóm tây Cầu Trúc!" Đến lúc
ấy, Lương Cử mới hiểu nghĩa hai câu thơ của Thập Ông,
tức cha mình:
Mộng hồn vạn dặm về đâu?
Đêm đêm bay đến Trúc cầu xóm tây!
Chỉ có một điều Lương Cử vẫn thắc mắc là không biết Giang
lão, người cùng ngồi với cha mình và Dã Hầu
trong gian nhà cỏ bên bờ hồ Động Đình là ai.
GS
Đàm
Quang
Hưng
Giáo
Sư Toán
Trường Đại Học Cộng Đồng Houston, Texas
www.ninh-hoa.com |
|