THÚ ĐỌC SÁCH:
ĐỌC
THƠ CHỮ Nguyễn Du
Lê Phụng
|
PHẦN 2:
南 中 雜 吟
Nam Trung
Tạp Ngâm
N am
Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài thơ dưới 27 đề mục, Nguyễn Du sáng
tác trong bẩy năm làm quan ở Huế và thời gian ông làm Cai Bạ
ở Quảng B́nh, và về làm quan tại Huế.
Bài đầu tiên là:
鳳 凰 路 上 早 行
Phượng Hoàng Lộ Thượng Tảo
Hành
征 夫 懷 往 路
Chinh phu hoài văng lộ
夜 色 尚 濛 濛
Dạ sắc thượng mông mông
月 落 猿 聲 外
Nguyệt lạc viên thanh ngoại
人 行 虎 跡 中
Nhân hành hổ tích trung
力 衰 常 畏 露
Lực suy thường úy lộ
髮
短
不
禁
風
Phát đoản bất câm phong
野
宿
逢
樵
者
Dă túc phùng tiều giả
相 憐 不 在 同
Tương liên bất tại đồng.
dịch là:
Sớm Mai Trên Đường
Núi Phượng Hoàng
Người đi người biết dường
dài
Nửa đêm về sáng ḷng ai lạnh
lùng
Trăng tà tiếng vượn năo nùng
Đựng đầy vết hổ ngập ngừng
bước chân
Gió sương sức yếu ngại ngần
Gió vờn tóc ngắn thương thân
tiêu điều
Quán quê trọ gặp bác tiều
Thương nhau chẳng
được mọi điều cùng nhau.
Theo Lê Thước và Trương
Chính, năm giáp tư 1804, Nguyên Du bị bệnh, từ chức tri phủ
Thuờng Tín về quê; it lâu sau lại có chỉ triệu vào kinh. Có
thể bài thơ này ông làm trên đựng Phuợng Hoàng, khoảng từ
tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào Trung và có quán Phương Hoàng. H́nh
ảnh người tiều phu thường là h́nh ảnh một ẩn sĩ. Hai câu kết
cho thấy dựng như nghỉ đêm tại quán quê, Nguyễn Du đă gặp
được người bạn ẩn sĩ mà trong hoàn cảnh lúc đó, dầu hai
ngựi có thân thiết với nhau, cũng không được cùng ở một
chốn với nhau.
Cuộc sống ở kinh đô, dường
như lôi cuốn Nguyễn Du vào một lối sống mới, mà người đọc
nh́n thấy qua năm bài dưói đây:
夢 得 採 連
Mộng Đắc Thái Liên
五
首
Năm Bài
其 一
Kỳ Nhất
緊 束 蚨 蝶 裙
Khẩn thúc phù điệp quần
採 蓮 棹 小 艇
Thái liên trạo tiểu đĩnh
湖 水 何 衝 融
Hồ thuỷ hà xung dung
水 中 有 人 影
Thuỷ trung hữu nhân ảnh
其
二
Kỳ Nhị
採
採 西
湖 連
Thái thái Tây Hồ liên
花
實
俱
上
船
Hoa thực câu thướng thuyền
花 以 贈 所 畏
Hoa dĩ tặng sở úy
實 以 贈 所 憐
Thực dĩ tặng sở liên
其 三
Kỳ Tam
今 晨 去 採 連
Kim thần khứ thái liên
乃
約 東
鄰 女
Năi ước đông lân nữ
不 知 來 不 知
Bất tri lai bất tri
隔 花 聞 笑 語
Cách hoa văn tiếu nữ
其 四
Kỳ Tứ
共 知 憐 蓮 花
Cộng tri liên liên hoa
誰 者 憐 蓮 榦
Thùy giả liên liên cán
其 中 有 真 絲
Kỳ trung hữu chân ti
牽 連 不 可 斷
Khiên liên bất khả đoạn.
其
五
Kỳ Ngũ
蓮
葉 何
青 青
Liên diệp hà thanh thanh
蓮 花 嬌 盈 盈
Liên hoa kiều doanh doanh
採 之 勿 傷 藕
Thái chi vật thương ngẫu
明 年 不 復 生
Minh niên bất phục sinh.
dịch là:
Mộng Hái Sen
Năm bài
Bài I
Quần nàng cánh bướm xắn cao
Hái sen thuyền nhỏ sóng chao
dập dềnh
Nước hồ lai láng mông mênh
Gưong soi mặt nước nàng xinh miệng cười
Bài II
Hồ Tây thư thả hái sen
Gương hoa hái cả một thuyền
đầy khoang
Hoa về tặng chốn nể nang
C̣n gương để tặng cô nàng
mười thương
Bài III
Sớm nay ḥ hẹn hái sen
Cùng cô hàng xóm mới quen
hôm rầy
Đến không không đến nào hay
Cách hoa khúc khích tiếng ai
đang cười.
Bài IV
Yêu sen người thế thường
t́nh
Ai người yêu cuống mới tinh
hơn đời
Cuống sen trong có tơ trời
Tơ bền cuống gẫy chẳng dời
c̣n vương.
Bài V
Lá sen mướt mát rờn xanh
Hoa sen mơn mởn dập dềnh tỏa
hương
Hái sen thưong ngó sen cùng
Bằng không năm tới sen hồng
c̣n đâu.
H́nh ảnh những buổi đi
hái sen len sâu vào giấc mộng của Nguyễn Du. qua năm bài
Thái Liên trên đây, khiến người đọc nhớ lại h́nh ảnh Nguyễn
Du trong những buổi hát phường vải, khi c̣n trai trẻ ở quê
nhà.
Mùa hè qua, thu về trên đế
đô, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài dưới đây với những h́nh
ảnh tiêu biểu cho đời làm quan trong triều:
秋 至
Thu Chí
香 江 一 片 月
Hương Giang nhất phiến
nguyệt
今 古 許 多 愁
Kim cổ hứa đa sầu
往 事 悲 青 塚
Văng sữ bi thanh chủng
新 秋 到 白 頭
Tân thu đáo bạch đầu
有 形 徒 役 役
Hữu h́nh đồ dịch dịch
無 病 故 拘 拘
Vô bệnh cố câu câu
回 首 藍 江 浦
Hồi thủ Lam Giang phố
閒 心 謝 白 鷗
Nhàn tâm tạ bạch âu
dịch là:
Vào Thu
Sông Hương một mảnh trăng
cao
Khơi trong ḷng khách mối
sầu cổ kim
Mồ xanh chuyện cũ lắng ch́m
Chớm thu tóc bạc trạnh niềm
quan san
Có thân vất vả lo thân
Bệnh không mà bắt gian truân
lưng kḥm
Ngoảnh đầu nh́n bến sông Lam
Tạ đàn âu trắng tâm nhàn
bâng khuâng.
Người đọc lưu ư tới h́nh ảnh
nấm mồ xanh mà tác giả coi là câu chuyện cũ đă lắng ch́m,
không thấy giới nghiên cứu nói là mộ của ai. Nhớ lại bài Kư
Mộng trong Thanh Hiên Thi Tập, Nguyễn Du ngủ mê thấy bà vợ
chính lặn lội từ xa về trong mộng với ông, phải chăng người
đọc có thể nghĩ rằng ông đă vợi quên được mối buồn này? Cái
buồn trước mắt hiện tiền là mối lo thân hàng ngày, không
phải c̣n là mối lo đói những ngày tản cư mà mối lo giữ ǵn
lời ăn tiếng nói, nhất là việc phải khom lưng quỳ gối tại
sân rồng. Ông lại nhớ về sông Lam, thèm cái tâm nhàn của đàn
âu trắng.
Nỗi cực nhọc trong cảnh làm
quan triều, một hoạt động không thích hợp với ông, đă được
ông ghi rơ bài trong bài ngũ ngôn sau đây:
悼 犬
Điệu Khuyển
駿
馬 不 老 死
Tuấn mă bất lăo tử
烈 女 無 善 終
Thiện nữ vô thiện chung
凡 生 負 奇 氣
Phàm sinh phụ kỳ khí
天 地 非 所 容
Thiên địa phi sở dung
念 爾 屬 土 畜
Nhiệm nhĩ thuộc thổ súc
與 人 毛 骨 同
Dữ nhân mao cốt đồng
貪 進 不 知 止
Tham chiến bất tri chỉ
隕 身 寒 山 中
Vẫn thân hàn sơn trung
隕 身 勿 嘆 惋
Vẫn thân vật thán uyển
數 試 無 全 功
Sổ thí vô toàn công.
dịch là:
Thương Con Chó Chết
Ngựa hay ngựa chẳng chết già
Mấy ai liệt nữ tài hoa chết
lành
Phàm người khí phách bẩm
sinh
Đất trời ghen ghét thường
t́nh chẳng tha
Thân ngươi làm chó giữ nhà
Xương lông chẳng khác làm ra
khác thựng
Chỉ biết tiến chẳng biết
ngừng
Hang sâu núi lạnh bỏ xương
rối đời
Bỏ xương chớ có trách trời
Uổng công thử thách thiệt
tḥi cho ngươi.
Không thể bảo bài trên đây
là một bài ngụ ngôn, lấy chó để răn người, dầu ư chính nói
về nếp sống tri túc tri chỉ, biết đủ biết ngừng.
Nguyễn Du lấy tên hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, tức người Hồng
Sơn thích săn bắn, hẳn ông yêu bầy chó săn của ông. Truyện
tṛ cùng chó nhiều khi có thể là lởi ḿnh tự nhủ ḿnh. Phải
biết đủ phải biết ngừng là lời ông tụ nhủ trên bước đường
làm quan, để tránh cái chết vô nghĩa bỏ xương thiệt thân
trong núi lạnh.
Tâm cảnh của Nguyễn Du trong
bài Điệu Khuyển trên đây c̣n là thi hứng của ông trong ba
bài:
偶 書 公 館 璧
Ngẫu Thư Công Quán Bích
三 首
Tam Thủ
其 一
Kỳ Nhất
朝 餐 一 盂 飯
Triêu xan nhất vu phạn
募 浴 一 盆 水
Mộ dục nhất bồn thuỷ
閉 門 謝 知 交
Bế môn tạ tri giao
開 窗 見 荊 杞
Khai song kiến kinh kỷ
窗 外 荊 杞 蔓 且 長
Song ngoại kinh kỷ mạn thả
trường
美 人 悠 悠 隔 高 牆
Mỹ nhân du du cách cao tường
杜 宇 聲 去 矣
Đỗ vũ thanh khứ hĩ
魂 兮 歸 來 悲 故 鄉
Hồn hề quy lai bi cố hương.
其 二
Kỳ Nhị
閶
闔 門
前 春
色 闌
Xương hạp môn tiền xuân sắc
lan
隔 江 遙 對 御 屏 山
Cách giang dao đối Ngự B́nh
san
春 從 江 上 來 何 處
Xuân ṭng giang thượng lai
hà xứ
人 倚 天 涯 滯 一 官
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất
quan
滿 地 繁 聲 聞 夜 雨
Măn địa phồn thanh văn dạ vũ
一 床 泒 悶 敵 春 寒
Nhất sàng cô muộn địch xuân
hàn
桃 花 莫 仗 東 君 意
Đào hoa mạc tượng đông quân
ư
傍 有 風 姨 性 最 酸
Bằng hữu phong di tính tối
toan.
其 三
kỳ Tam
東 望 江 頭 望 故 郊
Đông vọng giang đầu vọng cố
giao
浮 雲 無 定 水 滔 滔
Phù vân vô định thủy thao
thao
風 吹 古 塚 浮 榮 盡
Phong xuy cổ trủng phù vinh
tận
日 落 平 沙 戰 骨 高
Nhật lạc b́nh sa chiến cốt
cao
山 月 江 風 如 有 待
Sơn nguyệt giang phong như
hữu đăi
岩 棲 谷 飲 不 辭 勞
Nham thê cốc ẩm bất từ lao
平 生 已 絕 雲 霄 夢
B́nh sinh dĩ tuyệt vân tiêu
mộng
怕 見 傍 人 問 羽 毛
Phạ kiến bàng nhân vấn vũ
mao.
dịch là:
Ngẫu Nhiên Đề Thơ
Trên Vách Công Quán
Ba Bài
I
Sớm mai ăn một lưng cơm
Chiều về tắm mát một bồn
nước trong
Cổng cài tạm lánh bạn ḷng
Cành kinh cây kỷ ngoài song
vươn dài
Ngoài song kinh kỷ vươn dài
Mỹ nhân đằng đẵng tựng dầy
vách cao
Xuân tàn tiếng cuốc khơi sầu
Ơi hồn nhớ nước ở đâu sớm
về.
II
Trước thềm xuân đă hồ tàn
Cách sông núi Ngự ngút ngàn
mây cao
Cảnh xuân nước cuốn về đâu
Phận quan lần lữa buộc nhau
bên trời
Đêm dài nghe tiếng mưa rơi
Lạnh lùng gối chiếc lẻ đôi
sớm chiều
Hoa đào chớ cậy xuân yêu
Cả ghen d́ gió lắm điều kề
bên
III
Ngoái nh́n quê cũ đầu sông
Mây trôi nước cuốn bềnh bồng
bao la
Vinh hoa hăo nấm mồ xa
Đống xương tử sỉ chiều tà
cồn hoang
Hẹn ḥ sông núi gió trăng
Gian lao uống suối ở hang
chẳng sờn
Công danh mộng cũ tiêu ṃn
E người gạn hỏi mất c̣n cánh
lông.
Giới nghiên cứu cho biết
công quán là ngôi nhà công tại Huế, triều đ́nh cấp cho các
quan, có gia đ́nh vẫn c̣n ở quê.
Trong bài thứ nhất, Nguyễn
Du cho thấy cảnh ở công quán ăn cơm trọ, tắm nước bồn, không
có bè bạn, ngoài cửa sổ chỉ cây dại mọc dài, người đẹp kín
cống cao tường, chỉ c̣n nghe tiếng cuốc kêu khêu nỗi nhớ
nhà. Trong câu thứ sáu có hai chữ mỹ nhân đă gây
tranh căi trong giới nghiên cúu. Phe chủ trương Nguyễn Du
có chí pḥ Lê, cho hai chữ này chỉ nhà vua; giới đối nghịch
lại giảng hai chữ này là ngựi đẹp. cả hai phe cùng
không đưa ra một bằng chứng nào khác và để ngỏ để người đọc
phán đoán.
Bài thứ hai tác giả tả cảnh
một ḿnh một bóng ở nhà công quán, thêm nỗi buồn v́ phận làm
quan bó buôc, khúm núm trước sân rồng, lại c̣n e sợ bị gièm
pha.
Bài thứ ba, tác giả đón nh́n
về quê nhà cách sông cách núi xa xăm, mộng vinh hoa ngày nay
chôn xâu dưói nấm mồ, như đống xương vô định. Ngoài kia núi
sông gió trăng vẫn c̣n chờ đợi. Giấc mộng b́nh sinh đă dứt,
bay bổng tận mây xanh, mà truyện lông cánh ông vẫn c̣n e
ngại người đời hỏi tới.
Bài thứ ba cho thấy rơ là
giấc mộng vinh hoa của Nguyễn Du đă thật sự tàn. Nên khó bảo
rằng ông c̣n ư chí pḥ Lê. Có chăng là ông c̣n giấc mộng vui
cùng gió trăng sông núi. Thế nên, quyết đoán rằng Nguyễn Du
thật thà theo nhà Nguyễn, e rằng không giải thích
đưọc tại sao Nguyễn Du không hăng say trên hoạn lộ. Bảo rằng
v́ bẩm tính Nguyễn Du tự do phóng khoáng không muốn ra làm
quan th́ dường như trái ngược với sự kiện ông ra làm quan,
ngoài tỉnh trong triều, trước sau tṛn mười chín năm.
Trả lời những thắc mắc này
dường như không có cách nào khác hơn là đọc trọn vẹn ba tập
thơ của Nguyễn Du.
Nam Trung Tạp Ngâp chép
tiếp:
送 人
Tống Nhân
香 芹 官 道 柳 青 青
Hương Cần quan đạo liễu
thanh thanh
江 北 江 南 無 限 情
Giang bắc giang nam vô hạn
t́nh
上 苑 鶯 嬌 多妒 色
Thượng uyển oanh kiều đa đố
sắc
故 鄉 蓴 老 尚 堪 羹
Cố hương thuần lăo thượng
kham canh
朝 庭 有 道 成 君 孝
Triều đ́nh hữu đạo thành
quân hiếu
竹 石 多 慚 負 爾 盟
Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ
minh
惆 悵 深 宵 孤 對 影
Trù trướng thâm tiêu cô đối
ảnh
滿 床 滯 雨 不 戡 聽
Măn sàng trệ vũ bất kham
thinh.
dịch là:
Tiễn Bạn
Hương Cần quan đạo liễu xanh
Đôi bờ nam bắc một t́nh chứa
chan
Vườn vua ghen sắc oanh than
T́nh quê đạm bạc canh thuần
vẫn ngon
Vua thương chữ hiếu anh tṛn
Lỗi thề trúc đá thẹn ḷng
phận tôi
Đèn khuya đối bóng bồi hồi
Lắng nghe tí tách mưa rơi
bên giường.
Giới nghiên cứu cho biết
Hương Cần là một làng cách Huế chừng bốn cây số về phiá bắc,
nằm bên đường thiên lư. Có người cho rằng h́nh ảnh liễu xanh
trong câu thứ nhất mô tả cảnh chia tay giũa tác giả và ngựi
về đường ngoài. Câu thứ ba với h́nh ảnh ghen sắc của bầy
chim oanh trong vườn thượng uyển mô tả cảnh ghen đua tại sân
rồng. Đối với cảnh ghen đua đó là bát canh ngó sen, tiếng
chữ là canh thuần tượng trưng cảnh yên vui ở nhà. Người bạn
của tác giả giữ tṛn chữ hiếu nhờ ơn triều đ́nh trọng đạo,
riêng ông lỗi thề mà thẹn với trúc đá. Đêm về khuya, một
ḿnh Nguyễn Du ngồi bên đèn nghe mưa Huế tí tách rơi.
Nam Trung Tạp Ngâm ghi thêm
nỗi ḷng của tác giả trong những năm tháng làm quan xa nhà ở
Huế trong năm bài kế tiếp:
偶 興
Ngẫu Hứng
五 首
Ngũ Thủ
其 一
Kỳ Nhất
三 月 春 時 長 豆 苗
Tam nguyệt xuân th́ trưởng
đậu miêu
黃 狐 肥 滿 白 狐 驕
Hoàng hồ ph́ măn bạch hồ
kiêu
主 人 在 旅 不 歸 去
Chủ nhân tại lữ bất quy khứ
可
惜 鴻
山 屬
晚 樵
其
二
Kỳ Nh́
蘆 花 初 白 菊 初 黃
Lô hoa sơ lục cúc sơ hoàng
千 里 鄉 心 夜 共 長
Thiên lư hương tâm dạ cộng
trựng
彊 起 推 窗 望 明 月
Cưỡng khởi thôi song vọng
minh nguyệt
綠 陰 重 疊 不 遺 光
Lục di trùng hợp bất di
quang
其
三
Kỳ Tam
一
帶 芭
焦 綠
覆 階
Nhất đái ba tiêu lục phúc
giai
半 間 煙 火 雜 塵 埃
Bán gian yên hỏa tạp trần ai
可 憐 庭 草 芟 除 盡
Khả liên đ́nh thảo sam trù
tận
他 日 春 風 何 處 來
Tha nhật xuân phong hà xứ
lai
其 四
Kỳ Tứ
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
Cố hương kháng hạn cửu
phương nông
十 口 孩 兒 采 色 同
Thập khẩu hài nhi thái
sắc đồng
譬 似 蓴 鱸 最 關 切
Thí tự thuần lư tối
quan thiết
懷 歸 原 不 待 秋 風
Hoài quy nguyên bất
đăi thu phong.
其 五
Kỳ Ngũ
有 一 人 焉 良 可 哀
Hữu nhất nhân yên
lương khả ai
破 衣 殘 笠 色 如 灰
Phá y tàn lạp sắc như
hôi
避 人 但 覓 道 傍 走
Tị nhân đăn mịch dạo
bàng tẩu
知 是 昇 龍 城 裡 來
Tri thị Thăng Long
thành lư lai.
dịch là:
Ngẫu Hứng
Năm bài
I
Tháng ba đậu lúa cỏn
non
Cáo vàng hồ trắng béo
tṛn chạy chơi
Chủ nhân đất khách bên
trời
Non Hồng để mặc tay
người tiều phu.
II
Lau chớm bạc cúc chớm
vàng
Đêm dài dằng dặc dặm
ngàn nhớ quê
Bên song gượng đón
trăng về
Cây xanh rậm rạp bốn
bề vắng trăng.
III
Rợp hè tầu chuối xanh
rờn
Mịt mù tro bụi khói
ṿn nửa gian
Rẫy ṿm cỏ dại đầu sân
Xuân về chẳng biết gió
xuân ngả nào.
IV
Quê nhà hạn hán trời
hành
Nhà mười miệng trẻ mặt
xanh vơ vàng
Uớc mong thuần vực từ
quan
Sớm ra phải đợi thu
sang mới về.
V
Có người đói rét lang
thang
Rách bươm áo nón vỏ
vàng mầu da
Gặp ngựi khép nép
lánh xa
Từ Thăng Long đến mà
ra cảnh này.
Năm bài Ngẫu Hứng trên đây
ghi lại năm tâm cảnh của Nguyễn Du. Bài thứ nhất như một
giấc mơ của Hồng Sơn Liệp Hộ: ông nhớ lại việc trồng lúa
đậu, cùng những kinh nghiệm về loài hồ loài cáo vào dịp
tháng hai. Ông tiếc cho ông đang sống tại nơi công quán xa
quê, thú vui săn bắn ở cả trong tay người bạn tiều phu của
ông.
Bài thứ hai cũng lại là tâm
cảnh nhớ nhà một đêm thu ở nhà công quán. Ông chờ trăng lên
một ḿnh, nhưng cành lá cây kinh cây kỷ rậm rạp, như ông
viết trong bài Ngẫu Thư Công Quán Bích kỳ nhất, ngoài song
khiến ông không nh́n thấy trăng.
Bài thứ ba ông viết về tàu
lá chuối bên thềm nhà và nửa gian nhà bụi bậm. Ông tiếc cho
sân cỏ đă bị dẫy sạch mà lo cho mùa xuân tới không biết gió
thổi từ phương nào về. Bài thứ hai, và bài thứ ba cùng cho
người đọc không những thấy niềm nhậy cảm của Nguyễn Du với
ngoại cảnh thiên nhiên liền vói ông, đồng thời lại thấy như
ông muốn dùng cành lá cây kinh cây kỷ hay tàu lá chuối để mă
hóa những truyện ông không tiện ghi rơ hơn.
Bài thứ tư ông ghi lại tin
quê ông bị hạn hán. Mười miệng trẻ, con ông đă bị thiếu ăn.
Giới nghiên cúu cho biết là Nguyễn Du có ba vợ. Bà cả họ
Đoàn Nguyễn, sinh một con trai và mất sớm, bà kế họ Vơ, cũng
sinh một con trai. Bà thiếp sinh đưọc mười trai sáu gái ở
lại quê nhà, không vào kinh theo ông. Với một gánh nặng gia
đ́nh như vậy dầu tha thiết muốn từ quan về hưu, nay lại gặp
cảnh hạn hán, phải chăng dựng như ông phải lui truyên xin
nghỉ việc quan tới mùa thu?
Bài chót ông ghi h́nh ảnh
một người gặp cảnh đói rét, áo nón xơ xác, mặt mày xanh xao,
mà ông đoán là người Thăng Long mới đến kinh kỳ. Có nhà b́nh
giải cho bài này là bài ông tự họa ngày mới tới Huế. Nhưng
nhiều người khác bác bỏ ư kiến này.
H́nh ảnh mười miệng con đói
nơi quê nhà đang bị hạn hán c̣n đến với Nguyễn Du trong bài:
偶 題
Ngẫu Đề
白 地 庭 墀 夜 色 空
Bạch địa đ́nh tŕ dạ sắc
không
深 堂 悄 悄 下 簾 櫳
Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm
lung
丁 東 砧 杵 千 家 月
Đinh đông châm chử thiên gia
nguyệt
簫 索 芭 蕉 一 院 風
Tiêu tác ba tiêu nhất viện
phong
十 口 啼 饑 橫 嶺 北
Thạp khẩu đề cơ Hoành Lĩnh
bắc
一 身 臥 病 帝 城 東
Nhất thân ngoạ bệnh đế thành
đông
知 交 怪 我 愁 多 夢
Tri giao quái ngă sầu đa
mộng
天 下 何 人 不 夢 中
Thiên hạ hà nhân bất mộng
trung.
dịch là:
Ngẫu Đề
Thềm ngoài vắng lặng đêm
trong
Gian nhà tĩnh mịch nửa song
rủ mành
Trăng suông chầy vải th́nh
th́nh
Tầu tiêu gió đập dập dềnh
đầu sân
Quê ngoài mựi miệng thiếu
ăn
Thành đông đau ốm một thân
bên trời
Người cựi mơ mộng một đ̣i
Hỏi trong thiên hạ ai người
không mơ.
Tác giả dẫn ngụi đọc từ
ngoài thềm, trong đêm vắng vào trong nhà. Từ ngoài nhà tiếng
chầy vải, từ xa, tới tiếng tàu lá chuối bên thềm lọt vào
gian nhà. Rồi tác giả cho hay bày con nơi quê nhà c̣n đang
đói ăn, riêng ông ở mé đông thành một ḿnh vẫn đau yếu. Bạn
bè chế cuời ông suốt đời mộng mơ. Ông hỏi ngược lại ai là
nguời không bao giờ mơ trong thiên hạ này? Điểm đánh ghi
nhận là câu chuyện nhà mười miệng thiếu ăn đeo đẳng ông từ
bài Ngẫu Hứng IV, lại trở lại với ông trong bài Ngẫu Đề này.
Hai câu kết cho biết là bạn bè cười ông suốt đời sầu mộng.
Quay lại bài Ngẫu Hứng IV, dường như trước cành thiếu thốn
vật chất của mười đứa con ông đă có hành động thích đáng:
lui ngày ông xin từ quan tới sang thu.
Giấc mộng mà Nguyễn Du nói
tới trong hai câu kết trên đây c̣n len vào giấc ngủ của ông
như ghi trong bài:
水 連 道 中 早 行
Thủy Liên Đạo Trung Tảo Hành
悲 莫 悲 兮 行 道 難
Bi mạc bi hề hành đạo nan
草 頭 露 宿 犯 衰 顏
Thảo đầu lộ túc phạm suy
nhan
百 年 古 道 皆 成 壑
Bách niên cổ đạo giai thành
hác
一 帶 平 林 不 見 山
Nhất giải b́nh lâm bất kiến
san
多 病 一 身 供 道 路
Đa bệnh nhất thân cung đạo
lộ
五 更 殘 夢 續 鄉 關
Ngũ canh tàn mộng tục hương
quan
偶 逢 歸 客 向 余 話
Ngẫu phùng quy khách hướng
dư thoại
昨
歲
朝
天
乍
放
還
Tạc tuế triều thiên sạ phóng
hoàn.
dịch là
Sớm Mai Trên Đường Thủy Liên
Buồn cho đường lối gian nan
Màn sương nệm cỏ dung nhan
thêm sầu
Trăm năm đường lở thành hào
Rừng dầy che rặng núi cao
cuối trời
Đường trường đau ốm quê
người
Tàn năm canh mộng trông vời
quê xa
T́nh cờ gặp khách ngược ra
Vào chầu tṛn một năm qua
được về.
Giới nghiên cứu đoán chừng
là Nguyên Du viết bài này trong chuyến di hành vào Quảng
B́nh nhận chức Cai Bạ. Dầu được ra làm quan tỉnh, nhẹ bớt
cảnh khúm núm trước sân rồng, giấc mộng về cố hưong vẫn
không dời ông. Một tia hy vọng là ông gặp dưọc người khách
đường xa cho hay là năm ngoái vào chầu vua, năm nay đă đưọc
cho về.
Tiếp theo là bài:
新 秋 偶 興
Tân Thu Ngẫu Hứng
江 城 一 臥 閲 三 周
Giang thành nhất ngọa duyệt
tam chu
北 望 家 鄉 天 盡 頭
Bắc vọng gia hương thiên tận
đầu
麗 水 錦 山 皆 是 客
Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị
khách
白 雲 紅 樹 不 勝 秋
Bạch vân hồng thụ bất thăng
thu
此 身 已 作 樊 籠 物
Thử thân dĩ tác phàn lung
vật
何
處 重
尋 汗 漫
遊
Hà xứ trùng tầm hăn mạn du
莫
向 天
涯 嘆
淪 落
Mạc hướng thiên nhai thán
luân lạc
河 南 今 是 帝 王 州
Hà nam kim thĩ đế vương chu.
dịch là:
Ngẫu Hứng Đầu Thu
Ba năm nằm cơi Giang Thành
Vời trông trời bắc quê ḿnh
xa xôi
Cẩm Sơn Nhật Lệ đất người
Vào thu cây đỏ mây trôi bềnh
bồng
Thân này chim nhốt trong
lồng
T́m đâu ra cảnh thong dong
mà t́m
Chớ than lưu lạc nổi ch́m
Bờ nam nay cũng là miền đất
vua.
Giới nghiên cứu cho biết
Giang Thành là thành Đông Hải, tức Đồng Hới, bên sông Nhật
Lệ, tỉnh Quảng B́nh. Cẩm Sơn là tên núi, Lệ Thủy là tên
sông, hai địa danh thuộc Quảng B́nh. Trời Quảng B́nh đă vào
thu, mây trắng cây đỏ, mà tác giả chỉ thấy ḿnh như bị giam
trong lồng, không biết t́m đâu ra thú giải trí. Nhưng rồi
ông tụ an ủi, là nơi ông đang nhậm chúc chưa phải là chốn
chân trời, v́ đất bên bờ nam Nhật Lệ nay đă là đất của nhà
vua rồi.
Cái mơ ước từ quan của
Nguyễn Du dường như luôn luôn đi đôi với cái nợ áo cơm. Cái
giằng co này dường như làm nhà thơ nhiều đêm thức trắng, như
ông ghi trong bài:
夜 坐
Dạ Tọa
四
壁 蛩
聲 鬧
夜 眠
Tứ bích cùng thanh náo dạ
miên
矮 床 移 向 曲 欄 邊
Ải sàng di hướng khúc lan
biên
微 風 不 動 霜 垂 地
Vi phong bất động sương thùy
địa
斜 月 無 光 星 滿 天
Tà nguyệt vô quang tinh măn
thiên
今 古 閒 愁 來 醉 後
Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu
蓴 鱸 鄉 思 在 秋 先
Thuần lô hương tứ tại thu
tiên
白 頭 所 計 惟 衣 食
Bạch đầu sở kế duy y thực
何 得 狂 歌 似 少 年
Hà đắc cuồng ca tự thiếu
niên.
dịch là:
Ngồi Trắng Đêm
Dế than phá giấc bốn bên
Đẩy giường ra tận đầu hiên
ta nằm
Gió im sương đất giăng màn
Đầy trời sao tỏ trăng tàn
hết đêm
Hả say buồn truyện cổ kim
Đầu thu thuần vược trạnh
niềm phân vân
Bạc đầu nặng nợ áo cơm
Tiếc ngày niên thiếu thơ
ngâm như cuồng.
Câu thứ bẩy trong bài trên
đây, tác giả cho hay là ông đă bạc đầu rồi mà c̣n chỉ nghĩ
đến truyện áo cơm. Chác hẳn không phải truyện áo cơm cho
riêng chính ông, v́ dầu lương một vị đường quan, cấp cai bạ,
dầu có đạm bạc đến đâu chắc cũng dư cho việc cơm áo cho cá
nhân người làm quan, vậy câu truyện áo cơm này hẳn là câu
truyện áo cơm cho đàn con gần hai chục miệng ở quê nhà. Phải
chăng v́ vậy mà việc xin từ quan của ông làm ông phải suy đi
tính lại.
Ư muốn từ quan của Nguyễn Du
thấy rơ trong bài ông viết tặng ông bạn đă ra ngoài ṿng
cương tỏa như sau:
贈 人
Tặng Nhân
盈 盈 一 水 界 孤 村
Doanh doanh nhất thủy giới
cô thôn
中 有 高 人 不 出 門
Trung hữu cao nhân bất xuất
môn
蕉 鹿 夢 場 心 不 競
Tiêu lộc mộng trựng tâm bất
cạnh
秦 隋 往 事 口 能 言
Tần Tùy văng sự khẩu năng
ngôn
春 雲 滿 徑 群 糜 麓
Xuân vân măn kính quần mi
lộc
秋 稻 登 場 督 子 孫
Thu đạo đăng trường đốc tử
tôn
我 欲 掛 冠 從 此 逝
Ngă dục quải quan ṭng thử
thệ
與 翁 壽 歲 樂 琴 樽
Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.
dịch là:
Tặng Người
Sông đầy nước bạc bên thôn
Không ra khỏi của cao nhân
hơn đời
Mộng tiêu lộc chẳng đua đ̣i
Tần Tùy việc cũ đôi lời đúng
sai
Ngày xuân vui với hươu nai
Sang thu gặt hái đứng ngoài
nhắc con
Những mong treo mũ từ quan
Cùng ông năm tháng rượu đàn
vui chung.
Giới nghiên cứu cho biết
mộng tiêu lộc là chữ rút từ sách Liệt Tử, chép truyện
người hái củi giết được con hươu, dấu xuống hốc, lấy lá
chuối phủ lên; sau đó không nhớ đă dấu con hươu ở đâu, ngờ
là ḿnh ngủ mơ bắt được hươu. Nghĩa rộng là những cái có
ngoài thân như danh lợi, có đó mất đó, như thật như mơ. Đời
sống của người bạn của Nguyễn Du dường như là đời sống ông
thuờng mong ước mà chưa đạt được.
Cảnh sống của ông bạn ngoài
ṿng cương tỏa, như ghi lại trong bài trên đây dường như tô
một nét đậm trên ước mong treo mũ từ quan, chưa đạt của
Nguyễn Du, khiến ông viết lần thứ hai, giữ nguyên vận bài
trên :
再 次 原 韻
Tái Thứ Nguyên Vận
湛 源 流 水 發 山 村
Trạm nguyên lưu thủy phát
sơn thôn
陶日 麗 潮 頭 涌 海 門
Nhật Lệ triều đầu dũng hải
môn
清 渭 濁 涇 同 不 息
Thanh Vị trọc Kinh đồng bất
thức
黃 花 綠 竹 兩 忘 言
Hoàng hoa lục trúc lưỡng
vong ngôn
歲 收 秫 米 堪 供 客
Tuế thu thuật mễ kham cung
khách
天 假 松 年 及 抱 孫
Thiên giả tùng niên cập băo
tôn
浮 世 幾 經 桑 鹵 變
Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến
床 頭 依 舊 酒 盈 撙
Sàng đầu y cựu tửu doanh
tôn.
dịch là:
Bài Thứ Hai Nguyên Vận
Nguồn sông Trạm từ non cao
Cửa sông Nhật Lệ dạt dào
triều dâng
Vị trong Kinh đục đôi đàng
Quên lời trúc biếc cúc vàng
ung dung
Nếp thơm đăi khách đủ dùng
Cháu bồng tuổi thọ bách tùng
trời cho
Ḍng đời dâu biển chẳng lo
Đầu giuờng be rượu sẵn chờ
đầy vơi.
Hai câu đầu Nguyễn Du, theo Đào Duy Anh, tả cảnh sông Trạm,
hay sông B́nh Giang, bắt nguồn từ núi Bang Môn, qua 18 thác
và vực, rồi chẩy qua Hạt Hải đổ vào sông Nhật Lệ và tuôn ra
biển ở phía đông thành Quảng B́nh. Câu thứ ba ông gợi lại
cảnh hai nhánh sông Kinh sông Vị, một đục một trong, đổ vào
sông Hoàng Hà, Trung Quốc. Đó cũng là điển ngụ ư thói đời
trong đục, đời nào nơi nào cũng có. Câu thứ tư là một câu
thẫm mầu Thiền sắc Đạo. Trong ngôn ngữ Thiền, trúc xanh cúc
vàng là bốn chữ chỉ Phật pháp và Phật thân.
Hai chữ vong ngôn là hai chữ quan trọng trong thi ca
Đông Á. Hai chữ đó là hai chữ ở trong câu kết bài thơ ngũ
ngôn Ẩm Tửu Đệ Ngũ Thủ của Đào Tiềm, bài thơ được coi là
tiêu biểu cho thi ca Đông Á. Hai câu đó như sau:
:
此 中 有 真 意
Thử trung hữu chân ư
欲 辨 已 忘 言
Dục biện dĩ vong ngôn
dịch là:
Cảnh này chân ư nẩy ra
Giăi bày muốn nói mà ta quên lời.
Trong thi ca Việt Âm, Nguyễn
Trải có bài Du Sơn Tự, với hai câu kết:
箇 中 真 有 意
Cá trung chân hũu ư
欲 語 忽 還 忘
Dục ngữ hốt hoàn vong
dịch là:
Ḷng riêng ư thật sáng ḷa
Kiếm ḷi những muốn nói ra
quên lời
Hai chữ vong ngôn, truyền từ
Đào Tiềm, qua Nguyễn Trăi tới Nguyễn Du, vẫn giữ nguyên một
ư. Ư đó nằm gọn trong hai chữ kiệm ngôn, duy tŕ ư
của Đệ Nhất Tổ từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền đạo với chủ
trương:
不 立 文 字
bất lập văn tự.
Hai câu tiếp theo, tác giả
mừng người bạn ông cao tuổi thọ, có cháu ăm trên tay. Trong
cảnh đầm ấm đó, cuộc thế này chỉ là cơi phù sinh, mọi truyện
dâu biển dường đều như không đáng để ư tới và điều đáng để ư
tới nhất là be rượu luôn luôn đầy bên đầu giường.
Tiếp theo Nguyễn Du ghi lại
cảnh chớm thu ở Lệ Thành:
雜
吟
Tạp Ngâm
白
雲 初
起 麗
江 成
Bạch vân sơ khỏi Lệ Giang
thành
暑 氣 纔 秋 天 氣 清
Thử khí tài thu thiên khí
thanh
城 外 山 山 皆 暮 色
Thành ngoại sơn sơn giai mộ
sắc
江 頭 樹 樹 各 秋 聲
Giang đầu thụ thụ các thu
thanh
他 鄉 白 髮 老 不 死
Tha hương bạch phát lăo bất
tử
咋 歲 黃 花 今 更 生
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh
sinh
為 我 鴻 山 謝 松 石
Vị ngă Hồng Sơn tạ tùng
thạch
再 [無]面 目 見 同 盟
Tái vô diện mục kiến đồng
minh.
dịch là:
Tạp Ngâm
Mây về phủ trắng Lệ Thành
Khí thu dịu nóng trong xanh
ṿm trời
Thành ngoài sắc núi sẫm rồi
Xạc xào cây bến bồi hồi
tiếng thu
Quê người già chẳng chết cho
Cúc vàng năm ngoái c̣n chờ
nở hoa
Thông núi Hồng tạ giùm ta
Tưởng ngày giáp mặt bạn xưa
thẹn thùng.
Câu thứ tám chép trong
nguyên bản chỉ có sáu chữ, giới nghiên cứu đồng ư thêm vào
chữ vô để giữ cùng ư thơ trong trọn bài. Người đọc thơ dường
nhu thấy Nguyễn Du bắt đầu thấy cảnh vật Lệ Thành dễ chịu
hơn: cái nóng gió Lào đă dịu bớt, nhưng trận mưa dường đă
tạnh, ông đă lại nghe thấy tiếng th trong hàng cây đầu sông.
tóc ông bạc hơn, nhưng dường sức khỏe lại khá hơn.
Đám cúc ông trồng lại năm
ngoái lại sắp nở hoa. Ông gửi lời chào thông đá Hồng Lĩnh,
tại quê nhà, và khác mọi bài thơ đă viết trước đây, trong
bài này dường như ông không c̣n nôn nóng nghĩ đến chuyện từ
quan, nhưng vẫn c̣n cảm thấy như ḿnh lỗi hẹn với thông với
đá Hồng Lĩnh.
Người đọc c̣n nhận ra ư thơ
trên đây trong hai bài kế tiếp:
江 頭 散 步
Giang Đầu Tản Bộ
二 首
Hai Bài
其 一
散 髮 狂 歌 恣 所 之
Tản phát cuồng ca tứ sở chi
綠 頻 風 起 夕 陽 微
Lục tần phong khởi tịch
dương vi
白 雲 流 水 同 無 盡
Bạch vân lưu thủy đồng vô
tận
漁
父 浮
鷗 兩
不 疑
Ngư phủ phù vân lương bất
nghi
無
累 未
應 招 鬼
責
Vô lụy vị ưng chiêu quỷ
trách
不 才 多 恐 速 官 非
Bất tài đa khủng tốc quan
phi
年 年 秋 色 渾 如 許
Niên niên thu sắc hồn như
hứa
人 在 他 鄉 不 自 知
Nhân tại tha hương bất tự
tri.
其
二
Kỳ Nhị
促
歌 聲
短 漫
聲 長
Xúc ca thanh đoản mạn thanh
trựng
白 髮
蕭 蕭 古
道 旁
Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo
bàng
細
澗 水
聲 流
積 雨
Tế giản thủy thanh lưu tích
vũ
平 沙 人 影 在 斜 陽
B́nh sa nhân ảnh tại tà
dương
涓 埃 莫 報 生 何 補
Quyên ai mạc báo sinh hà bổ
兒 女 成 群 死 不 妨
Nhi nữ thành quần tử bất
phương
回 首 故 鄉 秋 色 遠
Hồi thủ cố hưong thu sắc
viễn
橫 山 雲 樹 正 蒼 蒼
Hoành sơn vân thụ chính
thương thương.
dịch là:
Tản Bộ Đầu Sông
Hai Bài
I
Dạo chơi sổ tóc nghêu ngao
Chiều tà gió thoảng nao nao
băi tần
Bao la nước chẩy mây vần
Quen rồi chim biển kết thân
ông chải
Chẳng vương quỵ lụy trách
ai
Việc quan e lẫn sợ sai e dè
Năm năm vẻ cũ thu về
Ḷng người lữ khách bộn bề
nào hay.
II
Nghêu ngao nhặt ngắn khoan
dài
Lối ṃn tóc trắng gió bay bơ
phờ
Ḷng khe róc rách tiếng mưa
Cồn xa trong nắng chiều mờ
bóng ai
Ơn vua đền đáp bấy nay
Đầy đàn con cái chết rày
cũng yên
Quê nhà xa lắc đoái nh́n
Trời thu cây cỏ đắm ch́m
hoàng sơn.
Những lúc tản bộ thường là
thời gian để người đi tản bộ suy nghĩ về những câu truyện
thường ngày người ta không có nhiều th́ giờ nghĩ tói. Trong
bài thứ nhất, Nguyễn Du dùng h́nh ảnh đàn chim trắng tới làm
thân với lăo chài dường như để mô tả việc cộng tác giữa ông
và đồng liêu nơi ông làm việc dường như đă có phần nào thân
thiện hơn. Đối với thưọng cấp của ông, v́ không màng danh
lợi, nên ông như ngựi vô lụy không c̣n sợ ma chê quỷ trách.
Đối với công việc hàng ngày, ông tự coi là ḿnh bất tài nên
phải cẩn trọng e dè. Năm này sang năm khác mùa thu lại về,
nhưng ḷng ông trăm mối bộn bề nên ông không biết đến.
Thi cảnh trong bài thứ hai
cũng là một cảnh chiều, nhưng ông sổ tóc nghêu ngao ngâm
thơ, mặc cho gió thổi bù mái tóc, nghe tiếng nước chẩy trong
ḷng khe suối, nh́n bóng ngựi xa ngoài cồn cát. Ông tin
rằng công việc ông đang đảm nhiệm đă đủ đền đáp ơn vua, đàn
con của ông cũng đă khôn lớn, cái chết có đến lúc này cũng
tạm yên. Ông không c̣n ray rứt nhớ quê, quay đầu hướng vế
quê ông chỉ thấy cây cối ch́m trong bóng núi Hoành Sơn.
Niềm thanh thản của Nguyễn
Du gửi gắm trong bài Giang Đầu tản Bộ II chợt tới rồi chợt
đi như ông ghi trong bài dưới đây:
偶 得
Ngẫu Đắc
孤 城 日 暮 起 音 雲
Cô thành nhạt mộ khởi âm vân
青 草 漫 漫 到 海 瀕
Thanh thảo man man đáo hải
tần
曠 野 遍 埋 無 主 骨
Khoáng dă biến mai vô chủ
cốt
殊 方 獨 托 有 官 身
Thù phương độc thác hữu quan
thân
事 來 徒 隸 皆 驕 我
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngă
老 去 文 章 亦 避 人
Lạo khứ văn chương diệc tỵ
nhân
妄 外 鴻 山 三 百 里
Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách
lư
相 從 何 處 問 前 鄰
Tương ṭng hà xứ vấn tiền
lân.
dịch là:
Ngẫu Đắc
Chiều về mây phủ cô thành
Một mầu tới biển cỏ xanh
xanh rờn
Vùi nông vô chủ nắm xưong
Làm quan sống chết tha
phương đành liều
Sai nha tới việc làm kiêu
Về già chữ nghĩa nhiều điều
nhớ quên
Non Hồng cách biệt hai miền
Xóm giềng thăm hỏi bốn bên
nhắn lời.
Cũng như trong bài Giang Đầu
Tản Bộ II, h́nh ảnh cái chết tha phương lại về trong câu thứ
ba và thứ tư trong bài Ngẫu Đắc trên đây. Nguyễn Du như cảm
thấy nha lại dưới quyền ông lúc có việc làm kiêu vói ông,
ông cảm thấy ḿnh già đi, nhiều điều nhớ quên quên nhớ. Điểm
đáng nói là ông lại nhớ về núi Hồng Lĩnh ở miền ngoài, nhưng
không nhớ tới gia đ́nh, hay thú săn bắn như trong nhiều bài
khác, mà ông muốn nhắn lời gởi thăm đôi bên hàng xóm cũ của
ông.
Ư thơ trong hai bài tới,
chép trong Nam Trung Tạp Ngâm, dường như đổi hướng. Không
c̣n những nhớ tiếc thời xa xưa, mà trái lại là những ghi
nhận về cảnh thái b́nh của đất nước sau mấy trăm năm nội
chiến. Điều đáng để ư là Nguyễn Du không ca ngợi chiến thắng
của nhà Nguyễn, nhưng ông mừng v́ chiến tranh đă chấm dứt,
chém giết không c̣n là một hành động đáng ghi công. Thanh
b́nh đă trở về với đất nước.
Bắt đầu là bài:
炮
臺
Pháo Đài
南
北 車
書 慶
大 同
Nam bắc xa thư kháng đại
đồng
炮
臺 虛
設 土
成 東
Pháo đài hư thiết thổ thành
đông
山
崩 石
裂 城
猶 壯
Sơn băng thạch liệt thành do
tráng
漢
奪
秦
爭
事
已
空
Hán đoạt Tần tranh sự dĩ
không
昨 者 大 虧 生 物 德
Tạc giả đại khuy sinh vật
đức
邇
來 不 貴
殺 人
功
Nhĩ lai bất quư
sát nhân công
清
平 時
節 無
爭 戰
Thanh b́nh thời tiết vô
tranh chiến
牛 犢 耰 耡 正 重 農
Ngưu độc ưu sừ chính trọng
nông.
dịch là:
Pháo Đài
Mừng nay thống nhất bắc nam
Thành đông đài pháo bỏ hoang
điêu tàn
Thành c̣n vững núi đá tan
Hết rồi truyện cũ Hán Tần
chiến chinh
Tránh hại vật trọng hiếu
sinh
Giết người chẳng được tôn
vinh hơn đời
Thanh b́nh gặp hội vận trời
Trâu ḅ cầy cấy đến thời
trọng nông.
Niềm vui dựng như là một
niềm vui chân thật của tác giả. Vui mừng v́ nam bắc nay một
nhà, Những thành tŕ pháo đài đều bỏ hoang điêu tàn. Truyện
chiến chinh đă hết. Nêu cao đức hiếu sinh, tránh giết tróc.
Coi trọng việc nông tang, tất cả đều là những h́nh ảnh mới
mẻ không hề thấy trong Thanh Hiên Thi Tập và trong cả hai
mươi tám bài trong Nam Trung Tạp Ngâm trên đây.
Tiếp theo là bài:
城 下 棄 馬
Thành Hạ Khí Mă
誰 家 老 馬 棄 城 陰
Thùy gia lăo mă khí thành âm
毛 暗 皮 乾 瘐 不 禁
Mao ám b́ can sấu bất câm
石 壘 秋 寒 徑 草 短
Thạch lũy thu hàn kinh thảo
đoản
沙 場 日 暮 陣 雲 深
Sa trường nhật mộ trận vân
thâm
饑
來 不
作 求
人 態
Cơ lai bất tác cầu nhân thái
老
去 終
懷 報
國 心
Lăo khứ chung hoài báo quốc
tâm
耐 得 風 霜 全 爾 性
Nại đắc phong sương toàn nhĩ
tính
莫 教 羇 縶 再 相 侵
Mạc giao ky trập tái tương
xâm.
dịch là:
Ngựa Hoang Chân Thành
Ngựa già ai bỏ chân thành
Da khô lông trụi thân ḿnh xác xơ
Cỏ cằn lũy đá cuối thu
Cồn xa bảng lảng mây mờ chiều buông
Đói ḷng chẳng cậy ngựi thương
Về già nợ nước sắt son vẫn bền
Gió sương giữ tính vẹn tuyền
Yên cương tránh chẳng đóng lên lưng gầy.
H́nh ảnh con ngựa hoang dưới
chân thành là h́nh ảnh Lăo Tử dùng để mô tả cảnh cuộc chiến
đă tàn, chiến mă thành vô dụng. Trong bốn câu đầu, h́nh ảnh
con ngựa già gặm cỏ khô dưới chân thành một chiều thu, dương
như là h́nh ảnh người lính già sau cuộc chiến, thiếu thốn mà
không nhờ vả vào ngựi khác, dầu nợ nước c̣n sắt son giữ
bền, nhưng giờ đây dường muốn giữ vẹn tuyền bẩm tính, chẳng
muốn bị đóng ngàm bịt móng tháng yên cương lên lưng một lần
nữa.
Dường như Nguyễn Du đă
thuyên chuyển về Huế, nên thi cảnh trong mười bài cuối Nam
Trung Tạp Ngâm không c̣n là h́nh ảnh Quảng B́nh.
Bắt đầu là bài:
望 天 台 寺
Vọng Thiên Thai Tự
天 台 山 在 帝 城 東
Thiên Thai sơn tại đế thành
đông
隔 一 絛 江 似 不 通
Cách nhất điều giang tự bất
thông
古 寺 秋 埋 黃 葉 裡
Cổ tự thu mai hoàng diệp lư
先 朝 僧 老 白 雲 中
Tiên triều tăng lăo bạch vân
trung
可 憐 白 髮 供 驅 役
Khả liên bạch phát cung khu
dịch
不 與 青 山 相 水 終
Bất dữ thanh sơn sơn thủy
chung
記
得 年
前 曾
一 到
Kư đắc niên tiền tằng nhất
đáo
景
興 猶
掛 舊
時 鐘
Cảnh Hưng do quải cựu thời
chung
dịch là:
Ngắm Cảnh Chùa Thiên Thai
Thành đông có núi Thiên Thai
Cách ngăn một nhánh sông dài
khó sang
Vào thu chùa cổ lá vàng
Có sư triều trưóc có ngàn
mây cao
Thương thân khu dịch bạc đầu
Thủy chung hẹn với non sâu
lỡ làng
Nhớ hồi năm truớc ghé sang
Cảnh Hưng ngày đúc chuông
vàng c̣n ghi.
Núi Thiên Thai là một trái
núi nhỏ ở phía đông thành Huế.Trên núi có chùa gọi là chùa
Thiên Thai. Câu năm câu sáu tác giả tỏ ư thương thân bề bộn
việc quan, khiến lỗi hẹn với núi xanh. Tác giả cũng c̣n nhớ
tới quả chuông đúc từ đời Cảnh Hưng làn trước thăm chùa ông
đă được xem.
Tiếp theo là hai bài Nguyễn
Du viết gửi Ông Thiêm Sự bộ Công, người họ Trần.
柬 工 部 詹 事 陳
Giản Công Bộ Thiêm Sự Trần
二 首
Hai Bài
其 一
Kỳ nhất
青 山 外 有 不 歸 人
Thanh sơn ngoại hữu bất quy
nhân
山 北 山 南 盡 白 雲
Sơn bắc sơn nam tận bạch vân
七 月 又 逢 秋 到 眼
Thất nguyệt hựu phùng thu
đáo nhăn
天 涯 空 帶 老 隨 身
Thiên nhai vô đái lăo tùy
thân
百 年 古 壘 煙 霞 合
Bách niên cổ lũy yên hà hợp
一 帶 寒 沙 草 澍 分
Nhất đái hàn sa thảo thụ
phân
倚 遍 欄 干 無 與 語
Ỷ biến lan can vô dữ ngữ
幾 回 驚 坐 憶 陳 遵
Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân
其 二
Kỳ nhị
清 風 裊 裊 自 江 津
Thanh phong niểu niểu tự
giang tân
明 月 青 山 上 海 瀕
Minh nguyệt thanh sơn thướng
hải tần
難 得 相 逢 如 此 夜
Nan đắc tương phùng như thử
dạ
可 憐 同 是 未 歸 人
Khả liên đồng thị vị quy
nhân
陰 符 歲 晚 生 仙 蠹
Âm phù tuế văn sinh tiên đố
幽 室 秋 寒 現 鬼 憐
U thất thu hàn hiện quỷ lân
夜 櫝 明 明 招 隱 賦
Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn
phú
鴻 山 慚 負 一 山 雲
Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn
vân.
dịch là:
Gửi Trần Thiêm Sự Bộ Công
Hai Bài
I
Ngoài non xanh người chưa về
Núi nam núi bắc đôi bề trắng
mây
Tiết thu tháng bẩy heo may
Cái già đeo đẳng bấy nay bên
trời
Lũy trăm năm ráng đầy vơi
Cồn dài cát trắng cắt dời
rặng cây
Khắp lan can không một ai
Bao lần kinh động nhớ hoài
Trần Tuân.
II
Gió hiu hắt nổi bên sông
Trăng lên núi biếc biển đông
rơ dần
Gặp được nhau bao gian truân
Đôi ta một cảnh khó khăn nẻo
về
Âm Phù mọt nhấm long b́a
Căn nhà thu lạnh lập loè đóm
bay
Phú Chiêu Ẩn chẳng dời tay
Thẹn ḿnh chót phụ làn mây
non Hồng.
Căn cứ vào câu thú tám bài
I, giới nghiên cứu đoán chừng ông Thiêm Sự Họ Trần này là
ông Trần Văn Tuân tham tri bộ Lại dưới triều vua Gia Long,
cùng thời vói nguyễn Du, dường như không để ư tới đầu đề bài
thơ ghi rơ ông bạn Nguyễn Du là thiêm sự bộ Công. Theo câu
thứ tư trong bài II th́ rơ là Nguyễn Du và ông bạn cùng muốn
về hưu mà chưa được như ư. Sách đọc của hai nguời là kinh Âm
Phù của Đạo Giáo, và v́ say mê bài phú Chiêu Ẩn Sĩ của Hoài
Nam Tiểu Sơn, chép trong phần sau của Sở Từ, đại ư kêu gọi
cao ẩn sĩ ra giúp Hoài Nam Vưong, theo Đào Duy Anh, Nguyễn
Du đă ra giúp nhà Nguyễn, khiến ngày nay thẹn với mây núi
Hồng Lĩnh.
Huế vào thu, gợi hứng cho
Nguyễn Du viết bài:
秋 日 寄 興
Thu Nhật Kư Hứng
西 風 再 到 不 歸 人
Tây phong tái đáo bất quy
nhân
頓 覺 寒 威 已 十 分
Đốn giác hàn uy dĩ thập phân
故 國 河 山 看 落 日
Cố quốc hà sơn khan lạc nhật
他 鄉 身 世 托 浮 雲
Tha hương thân thế thác phù
vân
忽 驚 老 景 今 朝 是
Hốt kinh lăo cảnh kim triêu
thị
何 處 秋 聲 昨 夜 聞
Hà xứ thu thanh tạc dạ văn
自 哂 白 頭 欠 收 拾
Tự thẩn bạch dầu khiếm thu
thập
滿 庭 黃 葉 落 紛 紛
Măn đ́nh hoàng diệp lạc phân
phân.
dịch là:
Ghi Hứng Ngày Thu
Gió thu tới chưa được về
Chợt nghe rét mướt sắt se
gấp mựi
Chiều tà non nước trông vời
Quê người thân thế nổi trôi
không nhà
Sáng nay chợt sợ cảnh già
Tiếng thu xào xạc đêm qua
chốn nào
Trách ḿnh vụng tính bạc đầu
Lá vàng lả tả xạc xào dầy
sân.
Gió thu lại về, nhưng tác
giả chưa được nghỉ hưu. Cái lạnh như lạnh thêm gấp mựi.
Niềm nhớ quê làm người xa quê thấy ḿnh như mây nổi, thấy sợ
cảnh già, chẳng c̣n biết tiếng thu ẩn náu nơi nào. Chỉ c̣n
trách ḿnh vụng tính. Đầy sân lá vàng rơi lả tả.
Tiếp tới, trong cùng một
mạch thơ, là bài:
山 中 即 事
Sơn Trung Tức Sự
疊 疊 層 巒 石 作 堆
Điệp điệp tằng loan thạch
tác đôi
煙 蘿 布 地 密 難 開
Yên la bố địa mật nan khai
忽 逢 駭 獸 樹 間 出
Hốt phùng giă thú thụ gian
xuất
知 有 樵 夫 林 下 來
Tri hữu tiều phu lâm hạ lai
燒 野 新 痕 青 草 盡
Thiêu dă tân ngân thanh thảo
tận
倚 山 舊 徑 白 雲 催
Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi
山 靈 故 絕 輕 肥 路
Sơn linh cố tuyệt khinh ph́
lộ
遍 列 危 岡 與 險 崖
Biến liệt nguy cương dữ hiểm
nhai.
dịch là:
Tức Sự Trong Núi
Núi trùng điệp đá ngổn ngang
Cỏ lan mờ lối dọc ngang đặc
dầy
Thú rùng sợ lủi lùm cây
Biết ngựi hái củi đâu đây
bên rừng
Đốt nưong cỏ cháy bừng bừng
Núi xa mây trắng từng từng
dâng cao
Sơn linh phú quư cấm vào
Cách ngăn vách dốc vực sâu
đặt bày.
Tác giả nhân dịp leo núi,
ghi lại cảnh núi non trùng điệp, cỏ dại ngăn lối; thú rùng
sợ hăi lùi trốn, khi có ngựi hái củi tới gần; vết cỏ cháy
v́ đốt cỏ làm nương; ngọn núi xa nhả mây trắng. Thần núi
dường như muốn ngăn lối kẻ giầu sang, áo lông ngựa béo, mà
bầy dặt vách dốc vực sâu hiểm trở.
Trong tỉnh Quảng B́nh, nơi
Nguyễn Du giữ chức Cai Bạ, có sông Gianh, một con sông đă
từng là ranh giới hai miền Đàng Ngoài và Đàng Trong suốt
cuộc chiến tranh Nam Bắc. Ḍng sông này đem lại cho Nguyễn
Du thi hứng để viết bài sau đây:
渡 靈 江
Độ Linh Giang
平 沙 藎 處 水 天 浮
B́nh sa tận xứ thủy thiên
phù
浩 浩 湮 波 古 渡 秋
Hạo hạo yên ba cổ độ thu
一 望 津 涯 通 巨 海
Nhất vọng thiên nhai thông
cự hải
歷 朝 彊 界 在 中 流
Lịch triều cương giới tại
trung lưu
三 軍 舊 壁 飛 黃 葉
Tam quân cựu bích phi hoàng
diệp
百 戰 殘 骸 臥 綠 蕪
Bách chiến tàn hài tọa lục
vu
北 上 土 民 莫 相 避
Bắc thượng thổ dân mạc
tương tỵ
卅 年 前 是 我 同 州
Táp niên tiền thị ngă đồng
châu.
dịch
là:
Qua Sông Danh
Cồn xa nước tiếp với trời
Thu về bến cũ chiều rơi khói
lồng
Bến sông ra biền mênh mông
Mấy triều cương giới giữa
ḍng chia đôi
Lá vàng lũy cổ rơi rơi
Cỏ xanh xương trắng chôn vùi
vạn quân
Chớ nghi bờ bắc t́nh dân
Ba mươi năm trước người thân
cùng làng.
Không những chỉ có sông Danh
mà cả sông Di ở phiá bắc Quảng B́nh, cũng là môt thắng cảnh
gọi hứng cho Nguyễn Du, như ông ghi lại trong bài:
瀰 江 口 鄉 望
Di Giang Khẩu Hương Vọng
望 望 家 鄉 似 日 遍
Vọng vọng gia hương tự nhật
biên
橫 山 只 隔 一 山 顛
Hoành sơn chỉ cách nhất sơn
điên
可 憐 歸 路 纔 三 日
Khả lân quy lộ tài tam nhật
獨 抱 鄉 心 已 四 年
Độc băo hương tâm dĩ tứ niên
燕 島 秋 寒 青 入 海
Yến đảo thu hàn thanh nhập
hải
瀰 江 潮 漲 白 函 天
Nễ giang triều trướng bạch
hàm thiên
外 州 今 與 吾 州 別
Ngoại châu kim dữ ngô châu
biệt
看 看 人 風 不 似 前
Khán khán nhân phong bất tự
tiền.
dịch là:
Từ Cửa Ṛn Ngóng Về Quê
Bên trời quê cũ cách ngăn
Hoành Sơn một giải dặm ngàn
xa xôi
Đường về ba bửa tới nơi
Bốn năm đằng đăng đôi trời
nhớ thương
Thu tàn Ḥn Én mờ sương
Chiều về sông Nễ sóng lồng
bóng mây
Châu nhà khác với châu đây
Thói xưa tục cũ đổi thay hết
rồi.
Sông Di, c̣n tên là sông Nễ,
đổ ra biển ỏ cửa Cảnh Dương hay c̣n gọi là cửa Ṛn, nh́n ra
Ḥn Én. Nguyễn Du ngắm cảnh ở cửa Ṛn mà nhớ về quê ông ỏ
bên kia Đèo Ngang, đựng đi thời đó chỉ mất ba ngày, mà thấy
như xa xăm tự bên trời. Chỗ ông đang ở là Châu Ngoài, thói
tục khác hẳn với thói tục nơi quê ông. Phải chăng v́ vậy mà
t́nh quê càng thêm nồng nàn?
Sau hai bài ghi lại thắng
cảnh ở vùng Quảng B́nh, Nam Trung Tạp Ngâm chép tiếp hai
bài thơ thù tạc giữa Nguyễn Du và hai người bạn.
Một là bài:
依 元 韻 寄
Y Nguyên Vận Kư
青 威 吳 四 元
Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên
一 夜 西 風 到 海 湄
Nhất dạ tây phong đáo hải my
童 年 交 誼 尚 依 偯
Đồng niên giao nghị thượng y
y
代 耕 有 舌 生 常 足
Đại canh hữu thiệt sinh
thường túc
去 國 何 心 老 不 歸
Khứ quốc hà tâm lăo bất quy
消 渴 日 增 司 馬 病
Tiêu khát nhật tăng Tư Mă
bệnh
夢 魂 夜 入 少 陵 詩
Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng
thi
臨 江 未 敢 題 鸚 鵡
Lâm Giang vị cảm đề Anh Vũ
還 有 中 原 一 大 兒
Hoàn hữu trung nguyên nhất
đại nhi.
dịch là:
Y Theo Nguyên Vận Gửi
Ông Ngô Tứ Nguyên ở Thanh
Oai
Gió tây đêm lộng biển đông
T́nh ta từ nhỏ vẫn không đổi
dời
Lưỡi thay cầy đủ sống rồi
Già về quê cũ ai ngựi không
mong
Bệnh Tư Mă ngày một tăng
Mộng hồn vẫn nhớ Thiếu Lăng
đêm trường
Đề thơ Anh Vũ xin nhựng
Trả người lăo luyện nhất
vùng trung nguyên.
Giới nghiên cứu không t́m ra
Ngô Tứ Nguyên là ai. Có người cho là chữ Tứ Nguyên phải là
người đỗ đầu bốn khoa: thi đầu xứ, thi hương, thi hội và thi
đ́nh. Có người t́m trong gia phả họ Ngô tại Thanh Oai, một
người khoảng cùng tuổi với Nguyễn Du, th́ chỉ thấy Ngô Th́
Hoàng, em ruột Ngô Th́ Nhậm và đoán rằng ông Ngô Th́ Hoàng
là người bạn xưóng họa cùng Nguyễn Du. Nhưng ông Ngô Th́
Hoàng chỉ đậu tú tài và ở nhà dậy học không ra làm quan. Thế
nên câu hỏi Ngô Tứ Nguyên là ai vẫn bỏ ngỏ.
Đây là một bài thơ Nguyễn Du
dùng nhiều điển tích cầu kỳ. Bệnh tiêu khát là bệnh
tiểu đường và Tư Mă Tương Như mắc bệnh này cũng như Ngô Tứ
Nguyên.
Thiếu Lăng tức Đỗ Phủ vốn là
nhà thơ mà Nguyễn Du tâm phục.
Thơ Anh Vũ trong câu thứ bẩy
nhắc tới bài Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu trong
Ṭan Đựng Thi và thoại Lư Bạch đọc thơ Thôi Hiệu đề trên
vách Hoàng Hạc Lâu, thán phục Thôi Hiệu và không đề thơ ở đó
nữa. Dùng điển này và câu thứ tám, Nguyễn Du khen ngợi thi
tài của ông bạn.
Bài thơ thù tạc thứ hai chép
trong Nam Trung Tạp Ngâm là bài:
送 吳 汝 山
Tống Ngô Nhữ Sơn
公 出 鎮 乂 安
Công Xuất Trấn Nghệ An
錦 羅 江 上 扣 征 鞍
Cẩm La giang thượng khấu
chinh an
拜 會 非 難 惜 別 難
Bái hội phi nan tích biệt
nan
八 大 奇 文 花 兩 國
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng
quốc
一 車 膏 雨 潤 全 驩
Nhất xa cao vũ nhuận toàn
hoan
人 從 淡 泊 斯 為 正
Nhân ṭng đạm bạc tư vi
chính
天 為 黔 犁 不 放 閒
Thiên vị kiềm le bất phóng
nhàn
北 望 鴻 山 開 德 耀
Bắc vọng Hồng Sơn khai đức
diệu
天 涯 舉 酒 慶 鄉 關
Thiên nhai cử tửu khánh
hương quan.
dịch là:
Tiễn Ngô Nhữ Sơn Ra Làm
Hiệp Trấn Nghệ An
Dừng cương bên bến Cẩm La
Gặp nhau chẳng khó khó là xa
nhau
Lừng danh hai nước văn hào
Ơn vua reo rắc dân châu Hoan
mừng
Lấy đạm bạc lo việc quan
Bởi trời việc nước muốn nhàn
chẳng xong
Đức cao chùm cả núi Hồng
Bên trời nâng chén tôi mừng
quê tôi.
Ngô Nhữ Sơn, tên thật là Ngô
Nhân Tỉnh, gốc người Minh Hương, cư ngụ tại Gia Định, thủa
trẻ theo học Vơ Trường Toản, nổi tiếng hay chữ. Làm quan với
triều Nguyễn. Đi sứ sang Trung Quốc hai lần (1802 và 1807).
Tháng giêng năm Gia Long thứ mười, ông thuyên chuyển làm
Hiệp Trấn Nghệ An. Bài thơ trên đây, theo giới nghiên cứu,
Nguyễn Du viết trong dịp này.
Theo Đào Duy Anh, trong câu thứ nhất, bến Cẩm La tức bến đ̣
Hàn trên sông Nhật Lệ, ở phía nam thành Quảng B́nh. Câu thứ
hai dẫn người đọc về một câu thơ Đựng nổi tiếng của Lư
Thương Ẩn, mở đầu bài Vô Đề
:
相 見 時 難 別 亦 難
Tương kiến th́ nan biệt diệc
nan
Chữ bát đại trong
nguyên bản chỉ tám nhà văn lón của Trung Quốc: Hàn Dũ, Liễu
Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thúc, Tô Triệt, Tăng
Củng và Vương An Thạch. Nguyễn Du dùng hai chũ này để nhác
lại truyện Ngô Nhân Tĩnh thủa đi học cùng Trịnh Hoài Đức, và
Lê Quang Định cũng nổi tiếng là Gia Định Tam Gia. Câu
thứ tư, theo Lê Thước và Trương Chính, Nguyễn Du nhắc tới
việc Ngô Nhân Tĩnh xin vua hoăn thu thuế cho dân châu Hoan,
tức Nghệ An v́ năm đó vùng này bị nạn đói kém. Câu thứ năm
tác giả ca tụng đức đạm bạc của Ngô Nhân Tĩnh trong việc làm
quan. Nay Ngô Nhân Tĩnh ra nhậm chức tại Nghệ An nơi quê
hương của Nguyễn Du, khiến ông mừng cho dân tỉnh ông.
Hai bài cuối chép trong Nam
Trung Tạp Ngâm là hai bài Nguyễn Du viết thay người đi thú
lâu năm mong được về quê quán, để giăi bày niềm mong ước của
ông được về quê huơng.
代 作 久 戌 思 歸
Đại Tác Cửu Thú Tư Quy
二 首
Nhị Thủ
其 一
Kỳ Nhất
關 外 秋 風 送 笛 吹
Quan ngoại thu phong tống
địch xuy
班 超 頭 白 未 成 歸
Ban Siêu đầu bạch vị thành
quy
十 年 許 國 君 恩 重
Thập niên hứa quốc quân ân
trọng
千 里 離 家 旅 夢 遲
Thiên lư ly gia lữ mộng tŕ
夜 繡 榮 花 身 外 幻
Dạ tú vinh hoa hân njgoại
huyễn
朝 雲 名 利 眼 前 非
Triêu vân danh lợi nhăn tiền
phi
隴 阡 歲 歲 瓜 田 熟
Lũng niên tuế tuế qua điền
thục
苦 盡 甘 來 尚 有 期
Khổ tận cam lai thượng hữu
kỳ.
其 二
Kỷ Nhị
千 仞 橫 山 一 帶 河
Thiên nhẫn Hoành Sơn nhất
đái hà
白 雲 回 扌 隔 天 涯
Bạch vân hồi thủ cách thiên
nhai
新 秋 氣 候 催 寒 杵
Tân thu khí hậu thôi hàn chử
故 國 關 山 寄 夜 笳
Cố quốc giang sơn kư dạ già
天 地 一 身 忠 易 孝
Thiên địa nhất thân trung
dịch hiếu
風 塵 萬 里 國 忘 家
Phong trần vạn lư quốc vong
gia
月 中 橫 笛 太 無 賴
Nguyệt trung hoành địch thái
vô lại
半 夜 江 城 吹 落 花
Bán dạ giang thành xuy lạc
hoa.
dịch là:
Viết Thay Người
Đi Thú
Lâu Năm Nhớ Nhà
Hai bài
I
Ải xa tiếng sáo gió đưa
Chàng Siêu đầu bạc vẫn chưa
được về
Mười năm việc nước nặng nề
Đêm dài tàn mộng nhớ quê
bàng hoàng
Hăo huyền vinh hiển nào màng
Lợi danh trưóc mắt mây vàng
sương mai
Bao năm dưa chín hẹn sai
Hạn qua rồi cũng tới ngày về
quê.
II
Sông ngănThiên Nhẫn Hoành
San
Chân trời trắng xóa mây ngàn
bốn phương
Thu về chẩy vải nện sương
Kèn đêm gợi mối đoạn trựng
nhớ quê
Lấy trung thay hiếu trọn bề
Quên nhà v́ nưóc chẳng nề
gió mưa
Dưới trăng tiếng sáo vẳng
đưa
Lạc Hoa réo rắt canh khuya
bên thành.
Thanh Hiên Thi Tập có chép
bài Đại Nhân Hư Bút của Nguyễn Du, thay người viết đùa để mô
tả cảnh sống sa sỉ của một người giầu có phung phí không
nghĩ tói cảnh gió bụi ỏ biển Nam. Hai bài cuối Nam Trung Tạp
Ngâm trên đây, Nguyễn Du cũng viết thay người lính thú xa
nhà đă lâu, mơ về bản quán.
H́nh ảnh tiêu biểu người
lính thú xa nhà lâu năm trong bài thứ nhất là h́nh ảnh của
Ban Siêu, quen thuộc trong văn học Việt Nam qua câu Chinh
Phụ Ngâm:
Chàng Siêu tóc đă điểm sương
chưa về.
Ban Siêu là một ông Tướng
đới Đông Hán đi chinh phục các nước vùng Tây Vực, hơn ba
chục năm, ngày về th́ đă già.
Người lính thú trong thơ xa
nhà cũng đă mười năm. Trong mộng vẫn mơ về bản quán. Vinh
hiển là hăo huyền, danh lợi khác nào nắng chiều sương mai.
Đă bao lần hẹn về mà chua được về. Nhưng chắc rồi một mai sẽ
có ngày về.
Bài thứ hai ghi lại cảnh
người lính thú đóng đồn ở miền Hoành Sơn và Thiên Nhẫn, hai
địa điểm ở hai bên bờ sông Gianh. Thi cảnh là cảnh trời vào
thu, khiến ngựi lính thú nhớ nhà, nhưng tự nhủ lấy trung
thay hiếu, v́ nước chẳng ngại gió mưa, và bên tai c̣n nghe
tiếng sáo năo nuột tấu bài Lạc Hoa.
Người đọc, qua hai bài trên đây, dường như thấy Nguyễn Du
không c̣n nôn nóng muốn về Hồng Lĩnh như trong nhiều bài
khác. Trong những đêm nhớ nhà người tha hương không c̣n màng
vinh hiển, không c̣n ước vọng lợi danh, nhưng vẫn đặt phép
công trên niềm riêng, và vững tin là rồi ra sẽ đưọc về
bản quán.
XEM
PHẦN 3
L Ê
PHỤNG
www.ninh-hoa.com |