10.
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Chúng ta thường nghe nói kinh Diệu pháp liên hoa -
nói gọn: kinh Pháp Hoa - là “vua của các kinh”.
Nay, chúng ta muốn t́m hiểu tại sao như vậy.
Ở Trung quốc, có một tông phái rất có uy tín tên là tông
Pháp Hoa, lư thuyết và thực hành đều căn cứ trên kinh Pháp
Hoa. Tổ thứ tư của tông ấy là Trí Khải đại sư (538-597)
đến lập tự viện và hoằng pháp tại núi Thiên Thai nên tông
này được gọi là tông Thiên Thai. Ngài Trí Khải - tên
khác: Trí Giả - viết nhiều sách rất có giá trị (có sách do
môn đồ của ngài viết, ghi lại lời giảng của ngài) nên được
tôn là giáo tổ của tông. Một trong những sách đó là
Diệu pháp liên hoa huyền nghĩa.
Tông Thiên Thai chia 45 năm thuyết pháp của đức Phật làm
năm thời kỳ gọi là ngũ thời giáo; đó là cách chia
của tông Thiên Thai, không chắc chắn là đúng theo lịch
sử.
1.
Thời Hoa nghiêm, dài 21 ngày, Phật chỉ thuyết một kinh Hoa
nghiêm mà thôi.
2.
Thời Lộc Uyển, 12 năm, Phật thuyết các kinh A-hàm, tiểu
thừa.
3.
Thời Phương Đẳng, 8 năm, Phật thuyết các kinh đại thừa.
4.
Thời Bát-nhă, 22 năm, Phật thuyết các bộ kinh Bát-nhă.
5.
Thời Pháp Hoa và Niết-bàn, 8 năm , Phật thuyết kinh Pháp
Hoa và một ngày một đêm thuyết kinh Niết-bàn.
Kinh Pháp Hoa
được coi là quan trọng bậc nhất, nên lúc đầu tên gọi của
tông là tông Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa
được chia làm hai phần ngang nhau: phần đầu gồm 14 phẩm,
phần cuối gồm 14 phẩm c̣n lại. Phần đầu là tích môn,
tích là dấu vết, môn là cửa (để vào đạo), ghi lại dấu vết
của các lời dạy, lời phó chúc của Phật. Phần sau là
bổn môn, bổn là gốc rễ, ghi lại căn bản tu hành. Phần
đầu nói về hiện phật tức Phật thời nay (tức là Phật
Thích-Ca), phần sau nói về cổ phật (như Phật Đa
Bảo).
Quan trọng nhất trong tích môn là phẩm 2 tức là phẩm
Thí dụ trong đó đại ư đức Phật dạy rằng tùy cơ mà
thuyết pháp, tạm chia ba thừa nhưng rút lại cũng chỉ có
nhất thừa mà thôi. Rất nhiều vị được thọ kư thành Phật,
cả hàng thanh văn, duyên giác cũng được thọ kư thành Phật.
Đó là nói ai cũng có thể thành Phật. Quan trọng nhất trong
bổn môn là phẩm 16 tức phẩm Như Lai thọ lượng, đại
ư phẩm này cho biết rằng Phật có từ vô thủy và tồn tại
măi, đức Thích-Ca chỉ là một vị Phật lịch sử bằng xương
bằng thịt có sanh có tử, nhưng thành Phật nên vào ngồi
trong bảo tháp cùng với đức Phật Đa Bảo. Ư nói Phật tánh
không sinh không diệt, trùm khắp không gian, trải suốt
thời gian.
Cả hai cho chúng ta thấy tư tưởng chủ yếu của kinh: Tất
cả chúng sinh đều có Phật tánh và do công đức tu hành có
thể thành Phật. Diệu pháp là ở tư tưởng đó vậy. Chúng
ta c̣n nhớ câu này: Chư Phật ra đời v́ một nhân duyên lớn,
là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến. Thoạt đầu, tôi
tưởng rằng tri kiến là thấy biết, nhưng sau vỡ nghĩa ra
rằng Phật tri kiến là Phật tánh. Mở cho chúng sinh thấy,
gặp được và vào Phật tánh.
(Tôi nhớ đến cụ Chánh Trí : cụ đă xin sám hối rồi nói rằng
tại sao việc đơn giản như thế mà đức Thế Tôn lại thuyết
dài quá vậy, lại có bao nhiêu huyền nghĩa ở trong, nghĩ
măi chưa hiểu).
C̣n liên hoa là hoa sen, tại sao hoa này quư, sách
giảng nghĩa như sau:
1.
Hoa và quả cùng kết thành một lượt.
2.
Cọng hoa riêng, cọng lá riêng.
3.
Ở chỗ bùn lầy mà không dính bùn.
4.
Ong bướm không bu quanh.
5.
Phụ nữ không dùng hoa sen mà gài lên đầu (ở Ấn-Độ xưa).
[Chư Phật và bồ-tát đứng hay ngồi trên ṭa sen, hàm ư rằng
từ nơi thế gian mà ra khỏi thế gian. Ai về cơi Phật
A-Di-Đà th́ sanh ra từ hoa sen, “hoa sen là cha mẹ”. Áo
cà-sa gọi là liên hoa y].
Từ câu: “ai ai cũng có Phật tánh” hay câu: “Phật tại tâm”,
nhiều người nghĩ rằng khỏi phải đi chùa tụng kinh, nghe
pháp, khỏi phải tu hành ǵ cả, đạo nào cũng tốt, đều dạy
làm lành tránh dữ như nhau. Đành rằng ai cũng có Phật
tánh, nhưng phải nhớ thêm rằng Phật tánh ấy bị vô minh che
lấp, không hiển lộ ra được. Cho nên cái đang có là chúng
sinh tánh chứ không phải là Phật tánh. Phải tu mới
“thấy” Phật tánh được, tu là sửa ḿnh chứ không bắt buộc
phải xuống tóc mới là tu. Lên chùa tụng kinh nghe pháp để
mở rộng sự hiểu biết về Phật pháp, ngơ hầu áp dụng cho
ḿnh. Thế là: “ngày ngày phải lau chùi, chớ để bụi bám
vào”, như lời ngài Thần Tú. Bao giờ thấy tánh rồi th́
hiểu tánh là không, như Lục tổ bảo: “Xưa nay không một
vật, bụi bám vào đâu?”. Phật tại tâm, nhưng tâm này là
tâm thanh tịnh chứ không phải tâm đầy tham sân và si.
Đồng ư, đạo nào cũng dạy làm lành tránh dữ, tuy nhiên đạo
Phật bảo rằng làm lành sẽ được quả lành, kiếp sau sẽ hưởng
phước báo ở cơi nhân, cơi thiên, nhưng khi phước báo hết
th́ vẫn lại chịu luân hồi. Đạo Phật nhằm thoát khổ, thoát
luân hồi, cho nên ngoài phước, c̣n phải trí
nữa mới đủ. Trí này là trí huệ bát-nhă, do tu mà được, nó
cũng có sẵn trong mỗi người, nhưng phải làm cho nó hiển lộ
ra.
Đó là mấy điều thô thiển mà tôi hiểu về chủ
đích của kinh Pháp Hoa, vua của các kinh: xác nhận rằng
ai ai cũng có Phật tánh và có thể tu hành thành Phật.
□
PHỤ CHÚ.
Ở Nhật bản, có một tông phái mang tên là Pháp Hoa tông
nhưng được biết nhiều hơn dưới tên Nhật Liên tông, gọi
theo tên nhà sáng lập Nhật Liên (1222 – 1282); sư Nhật
Liên trước học Chân ngôn tông (Mật giáo), sau học Thiên
Thai tông, rất phục bộ kinh Pháp Hoa nên lập tông và biên
soạn thêm. Tín đồ luôn luôn niệm Nam mô Diệu pháp liên
hoa kinh, thờ linh phù ở giữa viết chữ Diệu pháp liên hoa
kinh, chung quanh vẽ 10 cảnh giới, thân khẩu ư lúc nào
cũng nghiêm trang. Tông này rất mạnh, lại chú ư nhiều đến
việc nước, triều đ́nh nghi ngờ, có lần định xử trảm giáo
chủ Nhật Liên nhưng sau lại thôi. Tín đồ có khi đi tới độ
cuồng tín, dùng vơ lực sát sinh, trái với luân lư Phật
giáo. Ngày nay, tông phái này vẫn c̣n.
□