HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
08
TAM-THÁNH DỊCH
三
聖
易
(Tiếp theo Kỳ
105)
CHU
DỊCH
Nếu ta gộp Dich của Văn-vương và Chu-công lại, ta sẽ có Chính-Kinh. C̣n Khổng-Dich chẳng
qua chỉ là Dịch-Truyện tức Thập Dực. Chính-Kinh và
Dịch-Truyện hợp lại thành Chu Dịch.
Cổ Kinh chia thành Kinh Thượng và Kinh Hạ, gồm 30
Quẻ, chuyên bàn Thiên-mệnh và Kinh Hạ, gồm 34 Quẻ, thiên về
nhân-sự. Trong Kinh mọi quẻ đều bắt cặp. Có 4 cặp đối-xứng
thủ-vỹ (automorph) nghiă là lật ngược cũng không đổi:
Kiền/Khôn <A|B>,
Di/Đại-quá <[|\>,
Khảm/Ly <]||
^>,
Trung-phu/Tiểu-quá <
}||
~>,
được gọi chung là Quẻ Thác
錯
(Ngu-Phiên gọi chúng là Bàng-thông
旁
通. Tuy nhiên. Bàng-thông của Tiêu-Tuần trong
Dịch-đồ-lược (248) quy-củ và mạch-lạc hơn
nhiều. 28 cặp c̣n lại có đối-xứng ngoại-tại: lật ngược quẻ
này sẽ được Quẻ kia trong cặp (Phản-quái
反
卦) và được gọi chung là Quẻ Tổng
綜. Họ Ngu gọi chúng là Phản-phục
反復.
V́ quẻ Thác đối-xứng thượng-hạ nên tôi đặt tên Anh-ngữ cho
chúng là catagrams (tiếp-đầu-ngữ Hy-lạp cata- có hai nghĩa
là từ trên xuống dưới và hoàn-toàn). Tương-tự, tôi mệnh-danh
quẻ Tổng là ambigrams (tiếp-đầu-ngữ La-ngữ ambi- có nghĩa là
xung quanh).
Toàn-kinh có 108 Hào
dương và 108 Hào âm. Thượng-Kinh có 52 Hào dương và 56 Hào
âm; ngược lại, Hạ-Kinh có 56 Hào dương và 52 Hào âm.
Quân-bằng âm-dương được bảo-toàn và Đạo “âm-dương
tương-thắng
陰
陽
相
勝” cuả Hoàng-đế trong Âm-phù-kinh
皇
帝
陰
符
經luôn luôn được tôn-trọng.
Thượng-Kinh có 6 quẻ
Thác là Kiền/Khôn, Di/Đại-quá, Khảm/Ly, và 12 Quẻ Tổng, vị
chi là 18 Quẻ. Hạ-Kinh chỉ có 2 Quẻ Thác là
Trung-phu/Tiểu-quá, nhưng lại có (34-2)/2 = 16 Quẻ Tổng, vị chi cũng là 18 Quẻ. Quân-b́nh âm-dương
kiểu Định-lư quân-b́nh của “Tâm hồn đẹp” John Nash
(1950), được tái-lập ở cấp biệt-quái. Tôi gọi chung 36 quẻ
cốt-cán này là cộng-quái (cograms).
Dịch-truyện gồm 7
thiên bắt làm 10 Truyện (cũng gọi là 10 Cánh tức Thập-dực)
v́ Thoán-truyện, Tượng-truyện và Hệ-từ-truyện đều phân đôi:
1) Văn Ngôn
Truyện
文
言
傳 chuyên tán rộng
nghiă-lư hai quẻ Kiền Khôn.
2&3) Thoán-truyện
彖
傳
giảng rộng Thoán-từ và chia thành hai thiên Thượng, Hạ như
Chính-Kinh.
4)
Đại-Tượng-Truyện
大
象
傳 lập tượng cho toàn quẻ
và cũng là đặc-tinh tinh-thần cho mỗi quẻ: chính Truyện này
dạy ta Đạo làm đế-vương, đại-nhân, bề trên, chính-nhân
quân-tử, tóm lại là Đạo làm Người.
5) Tiểu-Tượng-Truyện
小
象
傳
lập tượng cho từng Hào.
6&7) Hệ-Từ-Truyện
繫
辭
傳 có chỗ chuyên-luận 2 quẻ Kiền Khôn, có chỗ
giải-thuyết 15 quẻ khác (Trung-phu, Đồng-nhân, Đại-quá,
Khiêm, Tiết, Giải, Đại-hữu, Khổn, Phệ-hạp, Bĩ, Đỉnh, Dự,
Phục, Tổn, Ích), có chỗ nói sơ qua bối-cảnh lịch-sử trong đó
Phục-hi, Thần-nông và Hoàng-đế làm ra Kinh Dịch và đặt nền
tảng luận-lư, triết-lư và Dịch-lư cho Toàn-Kinh.
8) Thuyết-Quái-Truyện
說
卦
傳 luận riêng về tượng các
quẻ đơn. Khi nói
đến quẻ Dịch, hoặc dùng tương-phản, hoặc dùng tương-sinh.
9) Tự-Quái-Truyện
序
卦
傳 thử giải-thích tŕnh-tự
các quẻ trong Chu-Dịch. Thoạt nh́n vào ta tưởng như đây là
một phương-thức giúp trí
nhớ thứ-tự các quẻ. Tuy nhiên phải dùng hàng tá Dịch-đồ và
luận-thức (Algorithms) mới cắt nghiă suông sẻ được tŕnh-tự
hóc buá này.
Theo Hồ Phác An, Truyện này
chính là vài nét chấm phá của Trung-quốc-sử giao thời
Thương-Chu, suốt từ quẻ Truân đến quẻ Tiểu-quá. Hai quẻ
Kiền, Khôn là Tổng-luận và 2 quẻ Kư-tế, Vị-tế là Dư-luận.
Chí lư thay ức-đoán của họ Hồ.
Ngoài ra nếu ta xét đến 16
hỗ-quái (xem bài kỳ 62), tức quẻ lơi (nucleograms) là các
quẻ có được bằng cách lấy 4 trung-hào tức 4 hào chính giữa
quẻ rồi ghép 3 hào trên cùng làm thượng quái và 3 hào dưới
cùng làm hạ-quái, ta sẽ được các quẻ: Kiền , Quyết
, Khuể , Quy-muội , Gia-nhân , Kư-tế , Di , Phục , Cấu ,
Đại-quá , Vị-tế , Giải , Tiệm , Kiển , Bác
và Khôn.
Bây giờ, nếu ta xét hai trung-hào tức hai nhân-hào (Hào tam
và hào tứ), 16 hỗ-quái này chia thành hai hạng Lăo và Thiếu.
Tám quẻ Kiền/Khôn, Bác/Phục, Đại-quá/Di, Cấu/Quyết,
Trung-hào đều là Thái-dương/Thái-âm cả, nên thuộc hạng lăo;
tám quẻ Tiệm/Quy-muội, Giải/Kiển, Khuể/Gia-nhân,
Kư-tế/Vị-tế, Trung-hào đều là Thiếu-dương/Thiếu-âm cả, nên
thuộc hạng thiếu. Rút cục, 16 hỗ-quái quy về Tứ-tượng.
10) Tạp-Quái-Truyện
雜
卦
傳, khi nói đến quẻ, thường
dùng phản-đối. Đó quả là một tŕnh-tự tân-kỳ cho 64 Quẻ do
chính Đức Khổng tử khởi-công sáng-nghĩ. Trước tôi, ông Chu
Thiện-Bồi周
善
培
đă viết quyển “Chu-Dịch Tạp-quái Chứng-giải周
易
雜
卦
證
解”
để giải-thích cánh Kinh Dịch cuối này. Theo ông, Tạp-quái
gồm các quẻ 4 Hào (Tetragrams) và 5 Hào (Pentagrams). Rút
cục, có cả thẩy 2 x 6 + 62 x 5 = 322 Tạp-quái. Nếu ta cộng
với 64 Bản-quái (gồm 64 x 6 = 384 Hào), là ta được 386 Quẻ.
Mặt khác, nếu ta cộng 384 Hào nguyên-thủy với Dụng Cửu và
Dụng Lục cuả 2 Quẻ Kiền Khôn, ta cũng được 386 Hào.
Muốn thấu hiểu nghĩa-lư Truyện này xin tham-khảo thêm
sách “Độc Dịch Tam Chủng” (017,
tr. 460-4, 594-8, 870-3).
Thoán-truyện, Tượng-truyện,
văn-từ giản-phác, hẳn được viết ra trước tiên. Huống hồ
Đại-tượng-truyện quẻ Cấn có câu:
“君
子
以
思
不
出
其
位。Quân-tử dĩ tư bất xuất kỳ vị.” (Người quân-tử xem đó
không suy nghĩ
ǵ vượt khỏi điạ-vị ḿnh). Câu này cũng là lời Tăng-tử
phát-biểu trong Luận-ngữ (LN, XIV/26). Nên Thôi Thuật, trong
"Thù Tứ Khảo-tín-lục洙
泗
考
信
錄"
mới cho rằng phải làm ra sau thời Tăng-tử. Văn Thoán, Tượng
truyện được viết ra khoảng đầu đời Chiến-quốc.
Văn-ngôn và Hệ-từ-truyện đều có rất nhiều "Tử viết",
nên không thể là có từ trước thời Khổng-tử, mà là kư-lục cuả
đệ-tử Khổng-môn.
Sử-kư
史 記
(045)
của Tư-mă Thiên
司
馬
遷có
dẫn câu:"天
下
同
歸
而
殊
途" (Thiên-hạ đồng-quy nhi
thù-đồ.) (Thiên-hạ cùng về bằng đường khác nhau) (Hạ Hệ
V/1). Đổng Trọng Thư
董
仲
舒
(Xuân-Thu Phiền-lộ春
秋
繁
露 [280]) và Hoài-Nam-vương Lưu
An
淮
南
王
劉
安, trong Hoài-nam-tử
淮
南
子 (006), Q11: Tề tục, tr. 515) đều dẫn câu: "履
霜
堅
冰
至
蓋
言
順
也。" (Lư sương kiên băng chí, cái ngôn thuận dă) (Dẵm
sương, biết băng giá đến là đề-cập tốn thuận vậy). Cho nên
Văn-ngôn và Hệ-từ-truyện không thể muộn hơn Sơ-Hán được.
Thuyết-quái-truyện chiụ ảnh-hưởng cuả thuyết "Ngũ-đức
chung thủy五
德
終始" cuả Trâu Diễn
鄒
衍
(305-240 B.C.?) (帝
出
乎
震。 = Đấng
chủ-tể ra ở phương đông ..., Chương V, Tiết 1) và thuyết
"Ngũ-hành phối số tự
五
行
配
數
序“ (
參
天
兩
地
而
依
數。Tham Thiên lưỡng Địa nhi ỷ số). Nhân trời với 3,
chia đất với 2 mà dựa vào số, (Thuyết-quái-truyện,
Chương I, tiết 2). C̣n Tự-quái-truyện lại được
Hoài-nam-vương trích-dẫn: "剝
之
不
可
遂
盡
也,故
受
之
以
復。"(Bác
chi bất khả toại tận dă, cố thụ chi dĩ Phục) (Hoài-nam-tử,
Q10: Mâu-xưng
繆
稱,
006, tr. 479). Nên hai
truyện này phải làm ra cuối thời Chiến-quốc.
Duy Tạp-quái-truyện không thấy Tư-mă Thiên đề-cập,
chắc v́ truyện này chưa xuất-hiện trong Kim-văn thời đó.
Để nghiên-cứu Chính Kinh và Dịch-truyện quư độc-giả
có thể dùng nguyên-bản và hoặc một trong năm dịch-bản
Việt-Anh-Pháp-Đức-Hoa sau đây:
278
Chu Dịch Chiết Trung
周易折中, Tái-bản, Thượng Hạ Tập, Thanh
è Đại-học-sĩ Lư Quang-Địa
李光地 toản,
Chân Thiện Mỹ, Đài-bắc, Tháng 7-1981.
402
Kinh Chu-Dịch Bản-Nghĩa, bản Việt-dịch cuả Cụ Cử
Nguyễn-Duy-Tinh, Trung-tâm Học-liệu, Bộ Văn-hóa Giáo-dục,
1968.
401
I Ching, A new translation by Kerson and Rosemary Huang,
Workman Publishing, New York, 1987.
403
Annales du Musée Guimet, Tome Vingt-troisième, Le Yi :
King ou Livre des Changements de la Dynastie des Tsheou,
traduit pour la première en Français par P.-L.-F. Philastre, en deux parties, Librairie d’
Amérique et d’Orient, 1982.
262
I Ging, 14. Auflage, Text und
Materialien, Aus dem Chinesischen
übersetzt von Richard Wihelm, Eugen Diederichs Verlag,
München, 1990.
404
Chu-Dịch Cổ-kinh Bạch-thọai Giải
周易古經白話解,
Đệ-nhất bản, đệ-tam thứ ấn-loát, Lưu Đại-Quân
劉大均,
Lâm Trung-Quân
林忠軍 trước, Sơn-đông Hữu-nghị Thư-xă, Sơn-đông, Tháng 7-1991.
Xem Kỳ 107
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |