HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
CHƯƠNG
08
TAM-THÁNH DỊCH
三
聖
易
(Tiếp theo Kỳ
107)
CỔ QUÁI-BIẾN
(233,
tr. 517-8)
Trong
bài kỳ 71 ta đã làm quen với quái-biến. Tuy nhiên, chính
quái-biến cuả Vũ-Thức Như-Ngọc (314)
đã dẫn đến ý-niệm tân-kỳ về quát. Bây giờ xin xét đến Cổ
Quái Biến cuả thời-kỳ Tiên Tần Hán.
Hệ-Hạ VII/1 nói: "Dich chi vi thư dã bất khả viễn, vi đạo dã
lũ thiên, biến-động bất cư, chu-lưu lục-hư, thượng hạ
vô-thường, cương-nhu tương dịch, bất khả vi điển-yếu, duy
biến sở thích = Dịch là một quyển sách không thể xa lià
âm-dương vật-tượng được. Đạo Dịch thường đổi dời, biến-động
chứ không ở yên, đi vòng quanh sáu cõi, trên dưới không
thường, cứng mềm đắp đổi, chẳng nên dùng làm điển-yếu, chỉ
biết biến-hoá bằng thích".
Trong Quách-thị Truyền-gia Dịch-thuyết (406),
Bạch-vân Quách-Ung nói: "Đạo Dịch thay đổi nhiều lần mà
biến-động, không cứ chỉ chu-lưu trong sáu hào, hoặc lấy hạ
mà thăng thượng, hoặc lấy thượng mà giáng hạ, để cương thế
chỗ nhu, để nhu thế chỗ cương, không thể câu nệ vào đạo
thường. Chỉ có biến bằng thích mà thôi. Đó chính là Dịch
Đạo".
Trong Hán Thượng Dịch-truyện (321),
Chu Chấn nói: "Tụng Thoán bảo: cương lại mà được trung. Tùy
Thoán bảo: cương lại mà đi xuống nhu. Cổ Thoán bảo: cương đi
lên mà nhu đi xuống. Phệ-hạp Thoán nói: cương nhu phân-động
mà sáng. Bí Thoán nói: nhu lại mà văn-minh, cương phân
cương, cuơng đi lên rồi đi xuống nhu. Vô-võng Thoán nói:
cương từ ngoài lại mà làm chủ bên trong. Đại-súc Thoán nói:
cương đi lên mà chuộng hiền. Hàm Thoán nói: nhu đi lên mà
cương đi xuống. Tổn Thoán nói: tổn trên, ích dưới. Lại nói:
tổn cương, ích nhu. Ích Thoán nói: tổn trên, ích dưới. Lại
nói: từ trên đi xuống dưới. Hoán Thoán nói: cương lại mà
khôn cùng, nhu được ngôi nơi ngoài mà đi lên ngang hàng.
Tiết Thoán nói: cương nhu phân, mà cương dương trung. Cương
là hào dương vậy. Nhu là hào âm vậy. Hào cương nhu, hoặc gọi
là lại, hoặc gọi là phân, hoặc gọi là đi lên, hoặc gọi là đi
xuống, duy chỉ có biến để thích-hợp. Điều đó họ Ngu xét
thuyết mà Cảnh-Quân, Phục Mạn-Dung, Thục-Tài, Lý Chi Tài,
bảo là từ quẻ nào lại".
Tô Đông-pha (1036-1101) (409)
nói: "Phàm cái mà Dịch gọi là cương nhu đều bắt gốc từ hai
quẻ Kiền-Khôn. Kiền thi-hành nhất dương nơi Khôn nhất âm để
sinh ra ba quẻ nam chấn-khảm-cấn, đều là nhất dương mà hai
âm. Phàm ba quẻ con, có nói cương lại mà sáng suả quả là gốc
nơi Khôn, nhờ Kiền lại để hoá. Khôn thực thi nhất âm nơi
Kiền để hoá hào này mà sinh ra ba quẻ nữ tốn-ly-đoài, đều là
1 âm mà 2 dương. Phàm ba quẻ nữ, có nói nhu lại mà sáng.
Điều đó gốc ở Kiền mà khôn lại để hoá".
Đông-cốc Trịnh Nhữ-Hài nói: "Dịch bắt đầu bằng vẽ vạch, và
từ kiền-khôn suy ra bát-quái. Kiền-khôn biến cực. Bát-quái
là do kiền-khôn sinh ra, ắt sáu-tư biệt-quái là do bát-quái
sinh ra. Đó là bản chỉ làm ra Dịch. Người truyền Dịch sợ
thuyết này quá thác-giản, nên mới đặt ra các thuyết hỗ-thể,
quái-biến. Lại nói kiền-khôn là đại-phụ-mẫu, Phục-Cấu là
tiểu-phụ-mẫu. Ôi! phụ-mẫu 10, làm sao phân-biệt được lớn
nhỏ".
Án:
Tham-đồng-khế : "Kiền-khôn là cửa ngõ cuả Dịch. Là cha mẹ
cuả chúng quái, vì chúng quái đều do kiền-khôn sinh ra."
Trong Tiên-thiên-học cuả Lý Đỉnh Chi và Thiệu-tử, quái-đồ
đều do Phục, Cấu, Lâm, Độn, Thái, Bĩ, Đại-tráng, Quan sinh
ra, điều này cho ta thấy rõ xuất-xứ là Tham-đồng-khế. Hơn
nữa, thuyết cuả họ Lý, họ Thiệu không những đánh mất
đích-truyền cuả Trần-Đoàn, mà còn mất luôn cả ý-chỉ cuả
Thoán-truyện nữa.
Thoán-truyện nói: "Thái, nhỏ đi mà lớn lại, ắt hanh, ắt là
trời đất giao mà muôn vật thông. Trên dưới giao mà thửa chí
giống. Trong dương mà ngoài âm, trong kiện mà ngoài thuận,
trong quân-tử mà ngoài tiểu-nhân. Đạo quân-tử tăng-trưởng,
đạo tiểu-nhân tiêu tan. Bĩ là thời-đại không có đạo làm người,
người quân-tử trinh-chính thì không lợi, cái lớn đi, cái nhỏ
lại, ắt là trời đất không giao mà muôn vật không thông. Trên
dưới không giao mà trời đất vô-bang. Trong âm mà ngoài
dương, trong nhu mà ngoài cương, trong tiểu-nhân mà ngoài
ngụy-quân-tử. Đạo tiểu-nhân tăng-trưởng, đạo quân-tử tiêu
tan".
Trong Tượng-số-luận, Lệ-châu Hoàng Tông-Hi (1610-1695) nói:
"Thuyết quái-biến bắt nguồn từ 'nhỏ đi, lớn lại', 'lớn đi,
nhỏ lại' cuả hai quẻ Thái-Bĩ, mà phần nhiều Thoán-truyện cuả
Phu-tử đã phát-minh quái-nghiã. Cho nên đó là một
đại-tiết-mục của Dịch vậy. Thượng-Kinh 30 quẻ, phản-đối 12
cặp, Hạ-Kinh 34 quẻ, phản-đối 16 cặp. Kiền, Khôn, Di,
Đại-quá, Khảm, Ly, Trung-phu, Tiểu-quá không phản-đối được,
ắt đảo thửa chẵn lẻ để tương-phối quái-thể. Phản-hào từng
đôi một cũng tùy quẻ mà biến, ngoảnh lại đó, ắt cát ở đó, ắt
hung ở kia, đáng vị ở đó, không đáng vị ở kia. Nhờ vào
phản-đối mà hiểu lẽ vãng lai ỷ-phục, đó chính là điều ta gọi
là 'nắm vững hai đầu' vậy. Thi-hành thì có giữ vững không
làm xằng, phản thì có cái dụng cuả thiên-xung, thời-cơ thì
có hội-ngộ phong-hanh, phản thì có nỗi buồn cuả ky-lữ (ở
trọ). Không phải là quẻ này sinh ra quẻ kia. Lại cũng không
phải là hào này tráo chỗ với hào kia".
Án:
Hệ-Thượng X/1 nói: "Dịch có bốn điều là đạo cuả thánh-nhân:
về ngôn-ngữ thì chuộng lời, về hoạt-động thì chuộng
biến-hoá, về sự chế đồ dùng thì chuộng hình-tượng, về bói
toán thì chuộng lời đoán". Biến cư nhất sao? Dịch cùng ắt
biến, biến ắt thông, thông ắt lâu bền. Biến là đại-nghiã
trong Dịch. Xem lời Khổng-tử nói: "Trên dưới vô-thường, cúng
mềm đắp đổi, trong dương mà ngoài âm, trong nhu mà ngoài
cương, ắt phàm trong Thoán-truyện cương-nhu vãng lai, trên
dưới trong ngoài đều chủ quái-biến, mà lời có thể hiểu
được". Như vậy chư nho đại-khái lấy một hào làm duyên-cớ,
chỉ có quẻ 3 hào âm, 3 hào dương là có thể thông, còn quẻ 2
hào âm, 2 hào dương không thể thông được. Vô-võng, cương từ
ngoài lại, thăng lên nhu dùng thời-thăng. Chỉ lấy phản-đối
mà nói, ắt chẳng thể thông được. Cho nên, quẻ có thể bao
quát hào mà hào không thể bao hàm quẻ được. Quẻ biến ắt hào
tùy tùng mà động. Khôn sách kiền, được chấn-khảm-cấn, lấy
một hào cương làm chủ. Kiền sách khôn, được tốn-ly-đoài, lấy
một hào nhu làm chủ. Thoán-truyện xưng là cương-nhu, hoăc
chỉ quẻ, hoặc chỉ hào, tùy văn dựng nghiã, được đấy. Đại-để
tam âm, tam dương, Thái-Bĩ phần nhiều lấy quẻ mà nói, kỳ dư
đều lấy hào mà nói. Hai hào âm, hai hào dương, ắt là đạo
trời đất lấy hào mà nói. Như vậy, thửa sở-chủ là một cương
cuả quẻ dương, một nhu cuả quẻ âm vậy.
KẾT NGÔN
Kinh Dịch là gì? Kinh Dịch là quẻ, Thoán, hào kèm theo Thập
Dực cuả Khổng-tử. Nghiệp tư bốn Thánh, đời trải Tam-cổ,
nghiã là không phải là cuả riêng ai, cuả riêng đều là
giao-hỗ, thác tổng, khác với Kinh Thư phân thành Ngu, Hạ,
Thương, Chu, hoặc Kinh Thi phân thành Phong, Nhã, Tụng, khác
với Kinh Xuân Thu phân thành 12 Công, nên chi là đầu mối cuả
Thượng-Kinh. Khảm-ly là âm-dương đã thành chất, nên
kết-thúc Hạ–Kinh. Không những chỉ có thế. Xem một Thiên
Tự-quái-truyện mới thấy thứ-tự 64 quẻ không thể thay đổi
được. Cho nên không đọc Toàn Kinh thì không thể nào hiểu nổi
Dịch. Quẻ để biểu-thị tượng, hào để biểu-thị biến, quẻ hào
hợp nhất, phân hai, quẻ thủ tượng, bàng-thông tương-thác.
Kiền với khôn là bàng-thông, mà Bĩ-Thái là kiền-khôn
tương-thác. Khảm với ly là bàng-thông, mà Ký-tế, Vị-tế là
khảm-ly tương-thác. Phàm tương-thác, nghiã quẻ mỗi mỗi
hỗ-chứng. Hào biến-động ở vị: đáng vị ắt cát, thất đạo ắt
hung. Đáng vị là gì? Đáng vị là nhị-ngũ đi trước, sơ-tứ,
tam-thượng theo sau để ứng. Tỷ như hai quẻ Kiền-Khôn, nhị
sang ngũ, Kiền là Đồng-nhân, Khôn là Tỷ. Tứ sang sơ, Kiền là
Gia-nhân, Khôn là Truân. Thượng sang tam, Kiền là Cách, Khôn
là Kiển. Ấy gọi là đáng vị. Thất-đạo là gì? Không chờ
nhị-ngũ đi, mà sơ-tứ, tam-thượng lại đi trước. Như hai quẻ
Kiền-Khôn, nhị-ngũ chưa đi, tứ sang sơ, Kiền là Tiểu-súc,
Khôn là Phục. Thượng sang tam, Kiền là Nhu, Khôn là Minh-di.
Cho nên, thất-đạo. Bởi vậy, không thông 64 quẻ, không hiểu
được quẻ nào cả. Không thông 384 hào, không hiểu được hào
nào cả. Sở dĩ nghiên-cứu bản thân Kinh Dịch, nên thống-độc
toàn thư mà nghiền ngẫm cho có thống-hệ, đồng thời theo sát
phương-pháp khoa-học. Ngay từ đầu, nên tổng-quan toàn thể
các ngôn-từ, chứ không nên đi ngay vào chi-tiết vội.
Đáng Vị Thất Đạo
Nhị-ngũ |
Tứ-sơ |
Thượng-tam |
Tứ-sơ |
Thượng-tam |
A M |
A e |
A q |
Q I |
A E |
B H |
B C |
B g |
B X |
B
d |
BÀI TẬP
Trong mỗi ô, điền vào chỗ trống bên phải mỗi quẻ đơn chiếc.
Đáng Vị Thất Đạo
Nhị-ngũ |
Tứ-sơ |
Thượng-tam |
Tứ-sơ |
Thượng-tam |
K
d |
K |
K |
K |
K |
L H |
L |
L |
L |
L |
THƯ TỊCH KHẢO (CHƯƠNG 08)
003
Hán Thư
漢書,
Ban Cố
班固
soạn, do An Bình
Thu
安平秋
& Trương Truyền Tỷ
張傳璽
Chủ-biên in Nhị Thập Tứ Sử Toàn Dịch
二十四史全譯,
do Hứa Gia Lộ
許嘉璐
Chủ-biên, Toàn 3
Sách, Đệ-nhất-bản, Hán-Ngữ Đại-Từ-Điển Xuất-bản-xã,
Thượng-hải, Tháng 1-2004.
006 Tân Dịch Hoài-Nam-tử
新譯淮南子,
Hùng Lễ Hối
熊禮匯 chú-dịch, Hầu Nãi Tuệ
候迺慧
hiệu-duyệt, 2 Tập, Tam-dân Thư-cục, Đài-bắc, 1997.
007 Tân Dịch Quốc-ngữ Độc-bản
新譯國語讀本,
Dịch Trung Thiên
易中天
chú-thích, Hầu Nãi Tuệ
侯迺慧
hiệu duyệt, Tam Dân Thư-cục, Đài-bắc, 1995.
019
Hậu-Hán-Thư
後漢書,
Phạm-Diệp
范嘩
soạn,
do Hứa Gia-Lộ
許嘉璐
chủ-biên
in
Nhị Thập Tứ Sử Toàn Dịch
二十四史全譯,
do Hứa Gia Lộ
許嘉璐
Chủ-biên, Toàn 3 Sách, Đệ-nhất-bản, Hán-Ngữ Đại-Từ-Điển
Xuất-bản-xã, Thượng-hải, Tháng 1-2004.
022
Hoàng-Cực Kinh-Thế Thư-Truyện
皇極經世書傳,
8 quyển, Tống
●
Tam Xuyên Thiệu Ung Nghiêu-phu
三川邵雍堯夫
soạn, Áo-châu Hoàng Kỳ
奧洲黃畿
tông-đại-truyện, Nam Tá Thái Tuyền hiệu
男佐泰泉校,
Mạnh-hạ Ất-mùi trùng-hiệu, Trung-hoa Thư-cục ảnh-ấn.
027
Tam-Dịch Bị-di
三易備遺,
Tống
●
Chu Nguyên-Thăng
朱元昇
soạn, Khang-hi Nguyên-san bản, 1680.
045
Sử Ký
史記,
Hán
è
Tư-mã Thiên
司馬遷soạn,
Tống
è
Bùi Nhân
裴駰
tập-giải, Đường
è
Tư-mã Trinh
司馬真sách-ẩn,
Đường
è
Trương Thủ Tiết
張守節chính-nghĩa,
Hoằng-nghiệp Thư-cục tái-bản, Đài-bắc, 15.04.1995.
078
Thi Kinh Kim Chú
詩經今注,
Mao Hanh
毛亨
chú, Trịnh Huyền
鄭玄tiên,
Khổng Dĩnh Đạt
孔穎達sớ,
Cao Hanh
高亨kim-chú,
Thượng-hải Cổ-tịch xuất-bản-xã, nhị-thứ ấn-loát, tháng
8-1982.
248
Dịch Đồ Lược
易圖略,
Tiêu-Tuần
焦循
(1763-1820) soạn, in Hoàng-Thanh Kinh-Giải Dịch-Loại
Vựng Biên
皇清經解易類彙編
(tr. 1161-1217), Nghệ-văn Ấn-thư-quán, Đài-bắc.
257
Xuân Thu Tam Truyện
春秋三傳,
3 Quyển, Khổng-tử niên-soạn, bản dịch của Ân-sư, Cụ Sơn-mai
Hoàng Khôi (1905-1970), Trung-tâm Học-liệu Bộ Giáo-dục,
Sài-gòn, 1969-1971.
268
Học Dịch Bút-đàm
學易筆談,
2 Tập, Hàng Tân Trai杭辛齋
(1869-1924) trước, in Hàng-thị Dịch-học Thất Chủng杭氏易學七種
(Tập Thượng, tr. 251-446; Tập Hạ, tr. 449-651), Chu-dịch
Công-tác-thất điểm-hiệu, Cửu-châu Xuất-bản-xã, Bắc-kinh,
Tháng 1-2005.
274
Tiên Tần Hán Ngụy Dịch Lệ Thuật Bình
先秦漢魏易例述評,
Tái-bản, Khuất Vạn Lý
屈萬里
trước, Học-sinh Thư-cục, Đài-loan, Tháng 3-1975.
278
Chu Dịch Chiết Trung
周易折中,
Tái-bản, Thượng Hạ Tập, Thanh
è
Đại-học-sĩ Lý Quang-Địa
李光地
toản, Chân Thiện Mỹ, Đài-bắc, Tháng 7-1981.
280
Xuân Thu Phiền-Lộ Nghĩa Chứng
春秋繁露義證,
Nhất bản, Tây-Hán
è
Đổng Trọng-Thư
董仲舒(179?-104
BC) nguyên-tác, Tô Dư
蘇輿
sọan, Chung Triết
鐘哲
điểm-hiệu, Trung-Hoa Thư-cục, Bắc-kinh, Tháng 12-1992.
290
Trung-Dung, Khổng-Cấp nguyên-tác, Chu-Hi tập-chú, Bản
Việt-dịch của Cụ Cử Hồng-liên Lê-Xuân-Giáo, Trung-tâm
Học-liệu Bộ Giáo-dục, Sài-gòn, 1972.
277
Tam-Dich Đỗng-Ky
三易洞璣,
Minh
è
Hoàng Đạo Chu
黃道周
soạn,
in
Thuật-số Tùng-thư 15, Nhất-bản, Tân-văn-phong,
Đài-bắc, Tháng 7-1995.
280
Xuân Thu Phiền-Lộ Nghĩa Chứng
春秋繁露義證,
Nhất bản, Tây-Hán
è
Đổng Trọng-Thư
董仲舒
(179?-104 BC) nguyên-tác, Tô Dư
蘇輿
sọan, Chung Triết
鐘哲
điểm-hiệu, Trung-Hoa Thư-cục, Bắc-kinh, Tháng 12-1992.
308
¢
Trang-tử Nam-Hoa-Kinh (Nội, Ngoại và Tạp-Thiên), Thu Giang
Nguyễn-Duy-Cần dịch và bình-chú, Khai-Trí, Sài-gòn, 1962.
309
Tân-thích Trang-tử Độc-bản新譯莊子讀本,
Hoàng Cẩm-Hoành
黃鋐錦
chú-dịch,
Tam-dân Thư-cục, Đài-bắc, tháng 11-1997.
314
Ngũ-phong Sơn-phòng Dịch-học
五峰山房易學,
Sơ-bản, Thức-như Vũ-Ngọc
式如武鈺
trước,
Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 10-1979.
316
Chu-Dịch Dữ Nho, Đạo, Mặc
周易與儒道墨,
Sơ-bản, Trương Lập-Văn
張立文
trước, Đông-đại Đồ-thư Công-ty xuất-bản, Vụ-phong, Đài-bắc,
Tháng 11-1991.
319
Dịch-học Tân-luận
易學新論,
Đài tam-bản, Nghiêm Linh-Phong
嚴靈峰
biên-trước, Chính-trung Thư-cục, Đài-bắc,
Tháng
11-1976.
321
Hán Thượng Dịch-Truyện
漢上易傳
(11 Q), phụ Quái-đồ
卦圖
(3 Q), Tùng-thuyết
叢說
(1 Q), Tống
●
Chu Chấn
朱震
soạn, Thông-chí-đường Kinh-giải Bản.
324
Luận-Ngữ
論語,
Dịch-giả Lê Phục-Thiện, Nhà xuất-bản Văn-học, Sài-gòn, Tháng
3-1992.
409
Đông-Pha Tiên-sinh Dịch-truyện
東坡先生易傳,
Tống
●
Tô-Thức
蘇軾
soạn, Lưỡng Tô Kinh-giải Bản, 1597.
Bài Đọc Thêm
MÉMOIRES HISTORIQUES
de SE-MA TS’IEN
traduits et
annotés par
Édouard CHAVANNES (1865-1918)
TƯ-MÃ THIÊN
SỬ-KÝ
TOME cinquième
CHAPITRE XLVII
Dix-septième maison héréditaire
K’ONG-TSE
(101).
KHỔNG-TỬ THẾ-GIA
@
p.283 K’ong-tse Khổng-tử
naquit dans la ville de Tseou
Trâu(102),
qui
faisait
p.284 partie du district de
Tch’ang‑p’ing Xương-bình(103)
dans (l’État de) Lou Lỗ.
Son ancêtre était originaire (du pays) de Song Tống
et s’appelait K’ong Fang-chou Khổng Phòng-Thúc(104).
(K’ong) Fang‑chou engendra
p.285 Po‑hia Bá-Hạ;
p.287 Po‑hia
engendra Chou‑leang Ho Thúc
Lương-Ngột(105).
(Chou‑leang) Ho contracta une union
disproportionnée (106)
avec une fille de
p.288 la famille Yen Nhan-thị(107)
et engendra K’ong‑tse. (Sa mère) pria sur
p.289 la colline Ni Ni-khâu(108)
et conçut K’ong‑tse. C’est la vingt‑deuxième
année du duc Siang Lỗ Tương-Công(551) que
K’ong-tse naquit (109).
A sa
p.290 naissance, le sommet de son
crâne se relevait sur les bords ; c’est pourquoi on tira de
là son nom personnel qui fut K’ieou ; son appellation
fut Tchong‑ni Trọng-ni(110) ;
son nom de famille était Kong.
p.291 Après la naissance de Kieou,
Chou‑leang Ho mourut (111).
p.292 On l’enterra sur la montagne
Fang Phòng-sơn; la montagne Fang se trouvait à
l’Est (de la capitale) de Lou (112) ;
à la suite de cela, K’ong-tse fut dans l’incertitude
au sujet de l’emplacement de la tombe de son père, car sa
mère avait évité de lui en parler (113).
Lorsque K’ong-tse
était enfant, dans ses jeux, il avait coutume de disposer
des étals et des vases pour les sacrifices et de préparer
les formes extérieures des rites.
La mère de K’ong-tse
étant morte, il l’enterra provisoirement près de la route
des Cinq pères Ngũ-phụ chi cù(114) ;
telle fut sans doute sa circonspection (115).
La mère d’un certain Wan‑fou Vãn-phụ
p.293 qui était (de la ville) de
Tseou, révéla à K’ong-tse (l’emplacement de) la
tombe de son père ; à la suite de cela donc, il réunit la
sépulture (de sa mère à celle de son père) à Fang.
Lorsque K’ong-tse
portait encore la ceinture de deuil, le chef de la famille
Ki Quý-thị(116)
offrit un banquet aux hommes
p.294 de valeur ; K’ong-tse
s’y rendit en leur compagnie. Yang Hou Dương-Hổ(117)
lui fit un affront en lui disant :
— Le chef de la famille Ki offre un
banquet aux hommes de valeur ; il ne se permettrait pas de
vous offrir un banquet.
A la suite de cela, K’ong-tse se retira (118).
Lorsque K’ong-tse
était âgé de dix‑sept ans (119),
un grand officier de Lou, Mong Hi-tse Mạnh Hy-tử
(120),
tomba malade et, se trouvant sur
le point de mourir, donna cet avertissement au fils qui
devait lui succéder, (Mong) I-tse Mạnh Ý-tử(121) :
— [ (122)
Kong K’ieou
est le descendant d’un homme saint (123) ;
son aïeul
p.295 Fou‑fou Ho Phất Phụ-Hà
avait d’abord (le trône de)
Song, mais, quoique étant l’héritier légitime, il céda
la place au duc Li Lệ-công
(124).
Puis
Tcheng K’ao‑fou Chính
Khảo-Phụ(125)
aida les ducs Tai Đới
(799‑766), Ou Vũ (765‑748) et Siuen
Tuyên-công(747‑729) ; (élevé à des dignités de plus en plus
hautes par) trois décrets (successifs), il ne fit que
redoubler d’humilité ; c’est pourquoi l’inscription de son
trépied était ainsi conçue :
« A la première nomination, j’ai courbé la
tête ; — à la seconde nomination, j’ai baissé les épaules ;
— à la troisième nomination, je me suis tenu profondément
incliné (126).
— Je marche en
p.296 rasant les murs ; — d’ailleurs
personne ne se permet de me mépriser ; — je prépare ma
bouillie épaisse de millet dans cet (ustensile) ; — je
prépare ma bouillie claire de millet dans cet (ustensile) —
pour donner la bouillie à ma bouche (127).
Telle fut son humilité. Pour moi, j’ai
entendu dire que, même si le descendant d’un
p.297 homme saint n’occupe pas dans
le monde la place qui lui revient (128),
(dans sa postérité) cependant il ne manquera pas d’y avoir
un homme doué de pénétration.] Maintenant, Kong K’ieou,
quoique jeune, s’entend bien aux rites ; ne serait‑ce
pas lui qui est l’homme doué de pénétration ? Quand je ne
serai plus, ayez soin de le prendre pour maître. »
Puis (Mong) Hi-tse mourut (129) ;
(Mong) Hi-se Ý-tử et Nan‑kong King‑chou Nam-cung
Kính-Thúc (130),
du pays de Lou, allèrent
(auprès de K’ong-tse), pour étudier les rites.
En cette année (535), Ki
Ou-tse mourut (131) ;
(Ki) P’ing-tse Bình-tử lui succéda.
K’ong-tse
était pauvre et de condition humble (132).
Devenu homme fait, il fut scribe au service (du chef) de la
famille Ki
(133)
et le compte et la mesure des grains furent
p.298 exacts ; il fut officier chargé
de s’occuper des pieux (134)
(auxquels on attache les bœufs et les moutons) et les
bestiaux devinrent nombreux et se multiplièrent. De ces
(fonctions), il s’éleva à la charge de se‑k’ong Tư-không;
puis il quitta (le pays de) Lou ; il
fut chassé (du pays) de Ts’i Tề; il fut rejeté (des
pays) de Song Tống et de Wei Vệ; il se
trouva en péril entre (les pays) de Tch’en Trần et de
Ts’ai Sái; puis il revint dans (le pays de) Lou (135).
K’ong-tse
était haut de neuf pieds six pouces. Les
hommes l’appelaient tous un géant et s’émerveillaient (de sa
taille) (136).
(Le prince de) Lou le traita de nouveau bien, et
c’est pourquoi il revint dans (le pays de) Lou (137).
p.299 Nan‑kong King‑chou,
(du pays) de Lou, dit au prince de Lou :
— Je vous demande la permission d’aller avec
K’ong-tse dans (le pays des) Tcheou Chu.
Le prince de Lou lui donna un char, deux
chevaux et un serviteur (138),
et ensemble (139)
(Nan‑kong King‑chou Nam-cung Kính-Thúc et
K’ong‑tse Khoông-tử) se rendirent dans (le pays
des) Tcheou (140).
(K’ong-tse) s’informa des rites. Ce fut sans
doute alors qu’il vit Lao-tse
(141).
Quand
p.300 il prit congé pour s’en aller,
Lao-tse le reconduisit en lui disant :
— J’ai entendu dire que l’homme riche et
puissant reconduit les gens en leur donnant des richesses,
que l’homme bon reconduit les gens en leur donnant des
paroles. Je ne saurais être riche et
p.301 puissant, mais je prends
furtivement (142)
le titre d’homme bon ; je vous reconduirai donc en vous
donnant des paroles, et voici ce que je vous dirai : Celui
qui est intelligent et qui est profond observateur est près
de mourir, car il critique les hommes avec justesse ; celui
dont l’esprit est très savant, ouvert et vaste (143),
met en péril sa personne, car il dévoile les défauts des
hommes. Celui qui est fils ne peut plus se posséder ; celui
qui est sujet ne peut plus se posséder (144).
Quand K’ong-tse fut
revenu du (pays des) Tcheou (145)
p.302 dans (la principauté de)
Lou, ses disciples affluèrent graduellement en nombre
de plus en plus grand (146).
En ce temps, le duc
P’ing Tấn Bình-công (557‑532) (147),
de Tsin, se livrait à des
excès (148) ;
les six hauts dignitaires empiétèrent sur son autorité ; du
côté de l’Est, ils attaquèrent les seigneurs. Le roi
Ling Sở Linh-vương (540‑529), de Tch’ou,
avait une forte puissance militaire ; il opprimait (149)
les Royaumes du Milieu (150).
Ts’i était grand et était voisin de Lou.
Lou était petit et faible ; s’il voulait se rattacher à
Tch’ou, Tsin s’en irriterait ; s’il prétendait se
rattacher à Tsin, c’est alors Tch’ou qui
viendrait l’attaquer ; s’il ne se mettait pas en garde
contre Ts’i, les soldats de Ts’i envahiraient
(le territoire de) Lou.
La vingtième année (522) du
duc Tchao, de Lou Lỗ Chiêu-công, K’ong-tse
étant donc (151)
âgé de trente ans, le duc King, de Ts’i Tề
Cảnh-công, vint avec Yen Yng Án Anh dans le pays
de Lou (152).
Le duc King demanda à K’ong-tse :
— Autrefois le duc Mou (659‑621), de
Ts’in Tần Mục-công, avait un royaume petit et
demeurait dans une
p.303 région écartée. Comment se
fait‑il qu’il ait obtenu l’hégémonie ?
(K’ong-tse lui) répondit :
— Quoique (le duc de) Ts’in eût un
royaume petit, sa résolution était grande ; quoiqu’il
demeurât dans une région écartée, sa conduite était juste et
correcte (153).
Lui-même il éleva en dignité « (le grand officier des) cinq
béliers » (154)
et lui donna le titre de grand officier ; il le retira des
liens qui le garrottaient (155)
et s’entretint avec lui pendant trois jours ; il lui confia
le gouvernement. Si on prend cela en considération, (on
reconnaîtra que,) même obtenir la royauté (156)
(le duc de Ts’in) l’eût pu ; c’est peu qu’il ait
obtenu l’hégémonie. »
Le duc King fut satisfait (157).
Lorsque K’ong-tse
avait trente‑cinq ans (517), Ki P’ing-tse Quý Bình-tử,
à cause d’un combat de coqs qu’il avait fait avec Heou
Tchao‑po Hậu Chiêu-Bá
(158),
se rendit coupable aux yeux du
duc Tchao, de Lou ; le duc Tchao, à la
tête de ses soldats, attaqua (Ki) P’ing-tse ;
mais celui-ci, unissant les forces de sa famille
p.304 à celles des deux familles
Mong Mạnh-thị et Chou‑suen Thúc-tôn-thị
(159),
attaqua le duc Tchao ; les
soldats du duc Tchao furent battus, et lui-même
s’enfuit dans (le pays de) Ts’i Tề; le duc de)
Ts’i logea le duc Tchao à Kan‑heou Kiền-hầu
(160).
Peu de temps après cela, (le pays
de) Lou fut en révolution ; K’ong-tse se
rendit dans (le pays de) Ts’i et se mit au service
personnel de Kao Tchao-tse Cao Chiêu-tử
(161),
dans l’espérance de parvenir
ainsi jusqu’au duc King. Il conversa sur la musique
avec le grand maître de la musique (du pays) de Ts’i ;
il entendit les airs de (la musique) chao Thiều; il
les étudia, et, pendant trois mois, il ne connut pas le
goût de la viande (162).
Les gens de Ts’i le louèrent.
p.305 [ (163)
Le duc King interrogea
K’ong-tse sur le gouvernement. K’ong-tse lui
dit :
— (Pour que le gouvernement soit bon, il
faut) que le prince agisse en prince, que le sujet agisse en
sujet, que le père agisse en père, que le fils agisse en
fils (164).
Le duc King dit :
— C’est fort bien
p.306 (répondu) — Si en effet le
prince n’agit pas en prince, si le sujet n’agit pas en
sujet, si le père n’agit pas en père, si le fils n’agit pas
en fils, même si j’avais mes revenus, comment pourrai-je en
jouir ? » (165)].
Un autre jour, (le duc
King) interrogea encore K’ong-tse sur le
gouvernement. K’ong-tse dit :
— Le bon gouvernement consiste à user avec
modération des richesses (166) ».
[ (167)
Le duc King fut satisfait (168) ;
il se proposait de
p.307 donner en apanage à
K’ong-tse les champs de Ni-k’i Ni-cốc,
(mais) Yen Yng s’avança et dit :
— Les lettrés (169)
sont des sophistes (170)
qu’on ne peut prendre pour modèle et pour norme (171).
Arrogants, et ne suivant que leurs propres opinions, on
p.308 ne saurait leur faire diriger
le peuple (172).
Attachant une grande importance aux deuils, ils se livrent à
l’affliction ; ils ruinent les fortunes dans des
funérailles somptueuses (173) ;
on ne saurait leur faire diriger les mœurs. Discoureurs qui
vont de lieu en lieu pour demander à emprunter (174),
on ne saurait leur faire diriger l’État. Après l’apparition
des grands sages (175),
quand la maison des Tcheou tomba en décadence, les
rites et la musique furent défectueux et eurent des lacunes.
(C’est pourquoi) maintenant K’ong-tse multiplie les
formes extérieures et les belles apparences (176) ;
il complique les rites pour
p.309 monter et pour descendre, les
règles pour marcher rapidement et pour marcher les bras
étendus (177).
Plusieurs vies ne suffiraient pas à épuiser les études
(qu’il prescrit) ; en y employant des années (178)
on ne parviendrait pas à examiner à fond les rites (qu’il
impose). O prince, si vous voulez lui confier un emploi afin
d’amener un changement dans les mœurs (du pays) de Ts’i,
ce ne sera point là le moyen de mettre le (bien du) menu
peuple au premier rang (de vos préoccupations) (179).
Après cela, le duc King traita
K’ong-tse avec respect quand il l’admettait en sa
présence, mais il ne l’interrogea plus sur (ses opinions
concernant les) rites (180).]
[Un autre jour, le duc King retint
K’ong-tse et lui dit :
— Vous honorer comme (le duc de Lou
honore) le chef de la famille Ki, je ne le puis.
Il le traita d’une manière
p.310 intermédiaire entre celle qui
convenait au chef de la famille Ki et
celle qui convenait au chef de la famille Mong (181) ].
Les grands officiers de
Ts’i voulaient du mal à K’ong-tse ; K’ong-tse en
informa (le duc King) ; le duc King lui
[dit : « Je suis vieux ; je ne puis me
servir de vous (182) »
K’ong-tse alors s’en alla] et revint dans (le
pays de) Lou (183).
Lorsque K’ong-tse
eut quarante‑deux ans (510), le duc Tchao, de
Lou, mourut à Kan‑heou (184).
Le duc Ting Lỗ Định-công
monta sur le trône. La cinquième année (505) du duc
Ting, en été, Ki P’ing-tse mourut. (Ki)
Hoan-tse Quý Hoàn-tử lui succéda (comme chef de
la famille Ki).
# [Ki
Hoan-tse, en creusant,un puits,
trouva une jarre de terre dans laquelle était un être qui
ressemblait à un mouton. Il interrogea K’ong-tse
à ce sujet en lui disant :
— J’ai trouvé un chien.
Tchong‑ni dit :
— D’après ce que moi, K’ieou, j’ai
appris, c’est un mouton. Voici ce que
p.311 moi, K’ieou, j’ai
appris : les prodiges du bois et de la pierre sont le
k’oei et le wang‑leang ; les prodiges de l’eau
sont le dragon et le wang‑siang ; le prodige de la
terre est le mouton fen phần dương
(185).]
p.312 [(Le prince de) Ou Ngô (186),
ayant attaqué (le prince de) Yue Việt (494),
bouleversa le Koei-ki Cối-kê (187)
et trouva un ossement, qui
faisait la charge entière d’un char. (Le prince de) Ou
envoya un émissaire demander à Tchong‑ni comment il
se faisait que cet ossement fût si grand. Tchong‑ni
dit :
— Yu fit venir la foule des divins
sur la montagne Koei-ki (188).
p.313 Fang‑fong (189)
arriva en retard, Yu le
tua et exposa son corps ; chacun de ses ossements faisait la
charge entière d’un char. Voilà pourquoi cet (ossement) est
grand.
L’étranger de Ou dit :
— Qui étaient les divins ?
Tchong‑ni
répondit :
— Les dieux (190)
des montagnes et des cours d’eau sont capables de régler le
monde (191) ;
ceux qui président (aux sacrifices qu’on leur rend) sont les
divins. (Ceux qui président aux sacrifices qu’on rend aux)
dieux du sol et des moissons sont les ducs et les
p.314 marquis (192).
Tous dépendaient du roi (193).
L’étranger dit :
— (A quels sacrifices) présidait Fang‑fong ?
Tchong‑ni répondit :
— Il était prince de Wang‑wang (194) ;
il présidait aux montagnes Fong et Yu (195).
Il était du clan Hi. A l’époque de Yu (Choen),
des Hia et des Chang, (cette principauté)
était celle de Wang‑wang ; à l’époque des Tcheou,
ce fut celle des Ti géants (196) ;
aujourd’hui on appelle (les gens de ce pays) les hommes
grands.
L’étranger demanda :
— Quelle est la grandeur de la taille
humaine (197) ?
Tchong‑ni
répondit :
— (Le peuple des) Tsiao‑yao a
trois pieds (198) ;
c’est la dernière petitesse ; les hommes les plus
p.315 grands ne dépassent pas dix
fois cette taille (199) ;
c’est là le chiffre extrême. »]
Alors l’étranger de Ou dit :
— Très bien (répondu) ! Voilà un homme
saint.
Un courtisan de (Ki) Hoan-tse, nommé
Tchong‑leang Hoai, avait des raisons d’inimitié
contre Yang Hou ;
p.316 Yang Hou
voulut chasser (Tchong leang)
Hoai ; Kong-chan Pou‑nieou l’en empêcha (200).
L’automne de cette même année (505), (Tchong‑leang)
Hoai ayant redoublé d’arrogance, Yang Hou
l’arrêta. (Ki) Hoan-tse en fut irrité et c’est
pourquoi Yang Hou emprisonna (Ki) Hoan-tse
; il fit une convention avec lui, puis le
relâcha ; à la suite de cela, Yang Hou redoubla de
mépris pour la famille Ki. La famille Ki, de
son côté, empiétait sur les prérogatives de la famille
ducale. Ceux qui étaient doublement sujets (201)
exerçaient le gouvernement de l’État ; ainsi, dans le pays
de Lou, depuis les grands officiers jusqu’aux
fonctionnaires subalternes, tous s’arrogeaient des droits
usurpés et s’éloignaient de la droite voie. Aussi,
K’ong-tse n’exerça‑t‑il aucune fonction publique ; il se
retira et arrangea (202)
les Poésies, le Chou (king), les rites
et la musique ; ses disciples furent plus nombreux que
jamais ; ils venaient même des contrées éloignées
p.317 et il n’était personne qui ne
reçût son enseignement (203).
La huitième année du duc Ting (502 av.
J.‑C.), Kong-chan Pou‑nieou, n’obtenant pas ce qu’il
désirait de la famille Ki, s’unit à Yang Hou
pour faire des troubles ; (lui et Yang Hou)
désiraient dégrader les chefs par droit de naissance des
trois familles issues du duc Hoan, et leur substituer
ceux des fils de naissance inférieure qui étaient de longue
date affectionnés à Yang Hou ; ils (tentèrent) donc
de s’emparer de Ki Hoan-tse ; mais (Ki)
Hoan-tse, grâce à un stratagème, put s’échapper (204).
La neuvième année du duc
Ting (501 av. J.‑C.), Yang Hou, n’ayant pas eu le
dessus, s’enfuit dans le pays de Ts’i. A cette
époque, K’ong-tse était âgé de cinquante ans (205).
Kong‑chan Pou‑nieou,
s’étant rendu maître de la ville de Pi (206),
se révolta contre la famille Ki. Il envoya un
messager inviter K’ong-tse à venir auprès de lui.
K’ong-tse se conformait à la raison depuis fort
longtemps ; il était très expérimenté (207)
et ne trouvait cependant point à être mis dans des fonctions
publiques (208) ;
il n’était personne qui
p.318 pût se servir de lui ; il dit :
— Puisque (les rois) Wen et Ou (209)
de (la dynastie) Tcheou sont partis de Fong et
de Hao pour devenir rois (210),
maintenant Pi, quoique étant une petite localité, ne
pourrait‑il peut‑être pas (avoir la même destinée) ?
Il désirait se rendre
(auprès de Kong‑chan Pou-nieou). Tse‑Lou Tử-Lộ
ne fut pas content et retint K’ong-tse. K’ong-tse
lui dit :
[
(211)
— Celui qui m’appelle à lui, comment
le ferait‑il sans raison ? S’il se sert de moi, ne ferai-je
pas de lui un Tcheou oriental ? (212)]
En définitive cependant, il ne partit pas (213).
Quelque temps plus tard, le
duc Ting nomma K’ong-tse gouverneur de
Tchong-tou
(214) ;
au bout d’un an, aux
p.319 quatre points cardinaux tous
prenaient (K’ong‑tse) pour modèle (215) ;
du poste de gouverneur de Tchong-tou il fut promu à
celui d’intendant des travaux publics (216),
et, de ce poste, à celui de chef de la justice (217).
La dixième année du duc Ting (500
av. J.‑C.), au printemps, (Lou) fit la
paix avec Ts’i. En été, un grand officier de
Ts’i, Li Tch’ou, dit au duc King :
— (Le duc de) Lou se sert de Kong
K’ieou et cette circonstance est dangereuse pour
Ts’i.
Alors (le duc de Ts’i) envoya un
ambassadeur pour inviter (le duc de) Lou à une
réunion
p.320 amicale ; on se réunit à
Kia‑kou (218).
Le duc Ting, de Lou,
se disposait à y aller amicalement (219)
avec ses chars ordinaires (220) ;
K’ong-tse, qui exerçait les fonctions de
conseiller (221),
lui dit :
— Votre sujet a entendu dire que,
lorsqu’il y a une affaire pacifique, on doit avoir fait des
préparatifs de guerre, et que, lorsqu’il y a une affaire
guerrière, on doit avoir fait des préparatifs de paix. Dans
p.321 l’antiquité, lorsqu’un seigneur
sortait de son territoire, il ne manquait pas de prendre ses
officiers avec lui pour l’accompagner. Je vous
demande de prendre avec vous vos maréchaux de
gauche et de droite.
Le duc Ting dit :
— Je vous approuve.
Il prit avec lui ses maréchaux de
gauche et de droite. Il se rencontra avec le prince
de Ts’i à Kia‑kou. On disposa une esplanade
avec trois marches en terre et (les deux princes) se virent
suivant les rites des entrevues (222).
Après s’être salués et s’être cédé le pas, ils
montèrent (sur l’esplanade). Quand ils eurent terminé
le rite de s’offrir le vin de part et d’autre, un
fonctionnaire de Ts’i s’avança rapidement et vint
dire :
— Je propose qu’on fasse la musique des
quatre points cardinaux (223).
Le duc King y consentit.
Aussitôt, guidons en plumes et en poils, plumes et
genouillères (224),
piques et hallebardes, épées et boucliers de s’avancer au
bruit des tambours et des cris (225).
K’ong-tse s’avança
p.322 promptement et gravit les
marches (de l’esplanade), mais sans monter sur la dernière ;
il leva ses manches et dit :
— Nos deux princes tiennent une réunion
amicale. Que vient faire ici la musique des barbares I
et Ti ? Je demande que des ordres soient donnés
aux officiers pour que les officiers repoussent (ces
danseurs).
Comme (les danseurs) ne s’en allaient pas, les
assistants regardèrent alors Yen-tse et le duc
King ; le duc King éprouvait de la honte dans son
cœur ; il fit donner un signal avec le drapeau et renvoya
(les danseurs). Au bout d’un moment, un fonctionnaire de
Ts’i s’avança rapidement et dit :
— Je propose qu’on fasse la musique de
l’intérieur du palais.
Le duc King y consentit. Des chanteurs
grotesques et des nains (226)
se présentèrent en faisant des tours. K’ong-tse
s’avança promptement ; il gravit les marches (de
l’esplanade), mais sans monter sur la dernière, et dit :
— Quand des hommes de basse condition
jettent le trouble (227)
parmi des seigneurs, leur crime mérite la mort. Je demande
que des ordres
p.323 soient donnés aux officiers
pour que les officiers appliquent la loi.
(Alors on mit à mort les nains (228)) ;
leurs mains et leurs pieds (229)
furent dispersés (230).
Le duc King, saisi de crainte, fut ébranlé ; il
comprit qu’il ne s’était pas conformé à la justice. A son
retour, il eut fort peur et dit à ses officiers assemblés :
— (Les gens de) Lou soutiennent leur
prince par la doctrine des sages ; mais vous, vous ne m’avez
instruit que dans les doctrines des barbares I et
Ti et vous avez fait que je me suis rendu coupable
envers le prince de Lou. Quel remède y apporter ?
Un fonctionnaire s’avança et lui répondit :
« Quand le sage a commis une faute, il s’en
excuse par des actes réels ; quand un homme inférieur a
commis une faute, il s’en excuse par des paroles (vides) ; ô
prince, si vous êtes affligé de ce que vous avez fait,
excusez‑vous en d’une manière réelle.
Alors le marquis de Ts’i (231),
pour s’excuser de sa faute, rendit les champs de Yun,
Wen-yang et Koei-yn (232)
qu’il avait pris à Lou.
p.324 La treizième année du duc Ting
(497) (233),
en été, K’ong-tse dit au duc Ting :
— Un sujet ne
doit pas avoir des armes cachées ; un grand officier ne doit
pas avoir des murailles de cent tche de tour (234).
Il chargea
p.325 [Tchong‑yeou (235)
d’être le conseiller du chef de
la famille Ki dans l’intention de démanteler les
trois places fortes (236) :
Alors le chef de la famille Chou‑suen commença par
démanteler Heou. Le chef de la famille Ki
s’apprêtait à démanteler Pi, mais Kong‑chan
Pou‑nieou (237)
et Chou‑suen Tche se
mettant à la tête des gens de Pi, attaquèrent à
l’improviste (la capitale) de Lou ; le duc et les
chefs des trois (familles issues du duc Hoan)
entrèrent dans le palais du chef de la famille Ki et
montèrent sur le belvédère Ou-tse. Les gens de Pi
les attaquèrent mais n’eurent pas l’avantage ; il y en eut
cependant qui pénétrèrent jusqu’auprès du duc (238).
K’ong-tse ordonna à Chen Kiu‑siu et à Yo
K’i (239)
de descendre (du belvédère) pour les combattre. Les gens de
Pi furent vaincus ; ceux du royaume (de Lou)
les
p.326 poursuivirent et les battirent
à Kou‑mie (240).
(Kong‑chan Pou‑nieou et Chou‑suen Tche)
s’enfuirent tous deux dans (le pays de) Ts’i. Alors
on démantela Pi].
[Comme on s’apprêtait à démanteler Tch’eng,
Kong‑lien Tch’ou‑fou dit au chef de la famille
Mong‑suen :
« Si
on démantèle Tch’eng, les gens de
Ts’i arriveront certainement (aussitôt) à la porte du
nord ; d’ailleurs, Tch’eng est le rempart protecteur
de la famille Mong ; supprimer Tch’eng, c’est
supprimer la famille Mong. Pour moi, je ne
démantèlerai pas (cette ville) (241).
Le douzième mois, le duc assiégea Tch’eng,
mais ne put en triompher.]
La quatorzième année (496)
du duc Ting, K’ong-tse, alors âgé de cinquante‑six
ans, quitta la charge de ministre de la justice pour
exercer les fonctions de conseiller (242).
Comme il avait l’air content, un de ses disciples lui dit :
— J’ai entendu dire que le sage, lorsque le
malheur arrive n’est pas saisi de crainte, et, lorsque le
bonheur arrive n’éprouve pas de joie.
K’ong-tse dit :
« Ce dicton existe en effet. Mais ne dit‑on
pas aussi : Il se réjouit de ce que, étant élevé en dignité,
il s’humilie devant les autres (243) ?
Puis (244)
il mit à mort le chao tcheng Mao, grand officier de
Lou qui jetait le désordre dans le gouvernement (245).
p.327 Quand on eut associé (K’ong‑tse)
au gouvernement de l’État, au bout de trois mois ceux
qui vendaient des agneaux et de jeunes porcs ne faussaient
plus leurs prix ; les hommes et les femmes qui passaient se
tenaient séparés les uns des autres sur la route ; sur le
chemin on ne ramassait pas ce qui avait été laissé par
mégarde (246) ;
les étrangers venus des quatre points cardinaux, quand ils
étaient arrivés dans la ville, n’avaient pas à recourir aux
magistrats, car on les traitait tous comme s’ils avaient été
dans leur propre pays (247).
Les gens de Ts’i
apprirent cela et en furent effrayés ;
p.328 ils dirent :
« Puisque K’ong-tse exerce le
gouvernement, certainement (Lou) obtiendra
l’hégémonie. Quand il aura atteint l’hégémonie, comme
c’est nous dont le territoire est le plus proche, c’est
nous qui serons les premiers annexés. Pourquoi ne pas lui
offrir un territoire (248) ?
Li Tch’ou (249)
dit :
— Je propose d’essayer d’abord de mettre
obstacle (à K’ong-tse) ; si nous lui
mettons obstacle, mais que cela ne réussisse pas, comment
serait‑il alors trop tard pour offrir (à Lou)
un territoire ?
Alors (250)
a on choisit dans le pays de Ts’i quatre-vingts
belles femmes (251),
qui, revêtues toutes d’habits élégants, jouaient en dansant
la musique k’ang (252),
et trente quadriges de chevaux
superbes pour les envoyer au prince de Lou. Ces
danseuses et ces beaux chevaux furent exposés en dehors de
la Porte Haute, au sud de la capitale de Lou. Ki Hoan-tse
alla les voir
p.329 sous un déguisement et y
retourna à deux et à trois reprises ; désireux d’accepter
(les présents), il dit au prince de Lou d’aller faire
un tour sur la route ; (le prince de Lou) alla
et contempla (ces femmes et ces chevaux) jusqu’à la fin du
jour ; il négligea les affaires du gouvernement. Tse-lou
dit (à K’ong-tse) :
— Maître,
il vous faut partir.
K’ong-tse
répondit :
— (Le prince de) Lou va bientôt faire
le sacrifice kiao ; s’il envoie de la viande du
sacrifice aux grands officiers (253),
je pourrai encore rester.
[ (254)
(Ki) Hoan-tse en définitive
reçut les danseuses (du pays) de Ts’i, et trois jours
durant, on ne s’occupa pas du gouvernement.] En outre lors
du sacrifice kiao, on n’envoya pas de la viande du
sacrifice découpée sur l’étal aux grands officiers.
K’ong-tse alors partit (255).
Il passa la nuit à T’oen (256).
Or, le maître de musique I,
p.330 qui l’avait accompagné, lui
dit :
— Maître, vous n’avez commis aucune faute.
K’ong-tse lui
dit :
— Puis‑je vous chanter quelque chose ?
Il chanta ceci :
Les bouches de ces femmes (257)
— ont réussi à me chasser ;
La visite de ces femmes — est cause de mort et de ruine ;
J’errerai donc de ci et de là, — et cela jusqu’à l’année de
ma fin (258).
Lorsque le maître de
musique I fut revenu (dans la capitale de Lou),
(Ki) Hoan-tse lui demanda :
— Que vous a dit de son côté K’ong-tse ?
Le maître de
p.331 musique I lui raconta ce
qui s’était passé. (Ki) Hoan-tse dit en
poussant un profond soupir :
— Si le maître me juge coupable, c’est à
cause de cette troupe de femmes viles (259).
K’ong-tse
se rendit alors dans le pays de Wei Vệ
(260).
Il habita dans la maison de
Yen Tchouo‑tseou (261),
frère aîné de la femme de Tse-lou.
Le duc Ling, de
Wei, demanda à K’ong-tse quels étaient ses
appointements quand il résidait dans (le pays de) Lou.
Il répondit qu’il recevait soixante mille
mesures (262)
de grain. Les gens de Wei lui attribuèrent
aussi soixante mille mesures de grain. Au bout d’un certain
temps, quelqu’un ayant calomnié K’ong-tse auprès du
duc Ling de Wei, le duc Ling chargea
Kongsuen Yu‑kia de l’accompagner dans toutes ses allées
et venues. K’ong-tse craignit d’être accusé d’un
crime, et, au bout de dix mois, il quitta le pays de Wei.
p.332 Se proposant d’aller dans (le
pays de) Tch’en (263),
il passa par K’oang (264).
Yen K’o (265)
lui
servait de cocher ; il lui montra
de son fouet (la ville) en lui disant :
— Autrefois je suis entré ici par cette
brèche (266).
Des gens de K’oang entendirent ce propos
et prirent (K’ong‑tse) pour Yang Hou,
du pays de Lou. Yang Hou avait autrefois violenté les
gens de K’oang. Les gens de K’oang arrêtèrent
donc K’ong-tse. K’ong-tse avait un extérieur qui
ressemblait à celui de Yang Hou ; on se saisit de
lui. Au bout de cinq jours, [ (267)
Yen Yuen
arriva en retard ; le maître lui dit :
— Je pensais que vous étiez mort.
Yen Yuen
répondit :
— O maître, tant que vous vivez, comment
pourrais‑je mourir (268) ?]
Les gens de K’oang gardant K’ong-tse
avec
p.333 un redoublement de rigueur, les
disciples eurent peur ; [ (269)
K’ong-tse
leur dit :
— Après que le roi Wen eut disparu,
sa perfection ne fut‑elle pas placée en cet homme‑ci (270) ?
Si le Ciel avait voulu faire périr cette perfection, moi, le
successeur du mort (271),
je n’aurais pu obtenir de participer à cette perfection.
Puisque le Ciel ne veut point encore faire périr cette
perfection, que peuvent les gens de K’oang contre
moi ?
K’ong-tse chargea
un de ceux qui le suivaient de se mettre au service de
Ning Ou-tse
(272)
dans (le pays de) Wei et c’est
ainsi qu’il put s’en aller.
Il partit et passa alors à
P’ou (273).
p.334 Au bout de plus d’un mois il
revint dans le pays de Wei. Il demeura dans la
maison de K’iu Po‑yu (274).
Parmi les femmes du duc
Ling, il y avait Nan-tse
(275).
Elle envoya un messager dire à K’ong-tse :
— Les sages, venus des quatre points
cardinaux, qui n’ont pas eu honte de désirer entretenir des
relations fraternelles avec notre prince, n’ont pas manqué
de me rendre visite, à moi humble princesse (276) ;
moi humble princesse, je désire vous voir.
K’ong-tse
(commença par) s’excuser, mais, ne pouvant faire autrement,
il alla lui rendre visite. L’épouse (du prince) était cachée
derrière des tentures ; quand K’ong-tse eut
franchi la porte, il se prosterna en se tournant vers le
nord. L’épouse (du prince) salua par deux fois de derrière
les tentures ; ses bracelets et ses pendeloques rendirent
un son de jade comme lorsqu’on frappe la pierre sonore (277).
K’ong-tse
p.335 dit :
— Je pensais d’abord ne pas lui rendre
visite ; mais, quand j’ai été en sa présence elle m’a
répondu suivant les rites.
[ (278)
Tse‑Lou
étant mécontent, K’ong-tse
s’expliqua franchement (279)
avec lui, disant :
« Si j’ai mal fait, c’est le Ciel qui m’y a
contraint, c’est le Ciel qui m’y a contraint (280).]
Après qu’il eut résidé plus d’un mois dans le
pays de Wei, le duc Ling fit une sortie dans
un char où il était avec sa femme et où l’eunuque Yong
K’iu était monté à côté d’eux (281) ;
il ordonna à K’ong-tse de monter
p.336 sur un char derrière eux (282) ;
ils se promenèrent ainsi à travers toute la place du marché.
[ (283)
K’ong-tse
dit :
— Je n’ai point encore vu quelqu’un qui aime
la vertu comme on aime une belle femme (284).
]
Alors, trouvant cela honteux, il quitta (le
pays de) Wei.
Il passa par Ts’ao (285).
Cette année‑là, le duc Ting,
de Lou, mourut (495) (286).
K’ong-tse
partit de Ts’ao et alla (dans le pays
de) Song (287).
Tandis qu’il s’exerçait aux rites
avec ses disciples au
p.337 pied d’un grand arbre, Hoan
T’oei, se‑ma de Song, voulant tuer K’ong-tse,
abattit cet arbre. K’ong-tse se retira, mais
comme ses disciples lui disaient qu’il fallait se hâter, il
leur répondit :
[ (288)
— Le Ciel a produit en moi la vertu.
Que peut Hoan T’oei contre moi (289) ?]
K’ong-tse
se rendit (dans le pays de) Tcheng (290).
S’étant séparé par mégarde de ses
disciples (291),
K’ong-tse se trouvait seul debout à la porte
orientale du faubourg (292).
Un homme de Tcheng dit à Tse‑kong :
— A la porte
orientale est un homme (293)
qui par le front (294)
ressemble à Yao, par la nuque ressemble à Kao‑yao (295),
par les épaules
p.338 ressemble à Tse‑tch’an (296).
Cependant, il s’en faut de trois
pouces que la partie de son corps qui est au‑dessous de la
ceinture n’atteigne (la taille de) Yu
(297).
Il est tout embarrassé, comme le chien dans une famille où
il y a un mort (298).
Tse‑kong rapporta
fidèlement ce propos à K’ong-tse ; K’ong tse tout
joyeux dit en riant :
— La forme extérieure (du corps) est sans
importance (299) ;
mais que je ressemble au chien dans une famille où il y a un
mort, cela est bien vrai, cela est bien vrai (300).
p.340 K’ong-tse
alla alors (dans le pays) de) Tch’en (301).
Il demeura dans la maison du surveillant des remparts
Tcheng-tse
(302).
Au bout de plus d’un an, le roi de Ou,
Fou-tch’ai,
attaqua Tch’en ; il lui prit trois villes, puis se
retira (303).
Tchao Yang attaqua (la ville de) Tchao-ko. (Le
roi de) Tch’ou assiégea (la capitale de) Ts’ai ;
(le prince (de) Ts’ai se transporta dans (le pays de)
Ou. (Le roi de Ou battit le roi de Yue,
Keou‑tsien,
à Koei-ki (304).
[ (305)
Il y eut un épervier (306)
qui s’abattit dans le palais (du
p.341
prince) de Tch’en et mourut ; une
flèche en bois hou (307)
le traversait ; elle avait une pointe en pierre (308) ;
la flèche était longue d’un pied et huit pouces. Le duc Min (309),
de Tch’en, envoya un messager interroger Tchong-ni
(à ce sujet). Tchong-ni dit :
— Cet épervier vient de loin (310),
c’est là une flèche des Sou‑chen (311).
Autrefois, quand le roi Ou eut triomphé (de la
dynastie) des Chang,
il fit pénétrer entièrement son influence) chez les neuf
(peuples)
p.342 I
et chez les cent (tribus) Man ;
il les obligea tous à venir apporter en tribut des présents
consistant en produits de leurs pays respectifs et les
empêcha ainsi d’oublier les obligations de leurs fonctions.
Alors les Sou-chen
apportèrent en tribut des flèches en bois
hou, qui avaient
une pointe en pierre et qui étaient longues de un pied et
huit pouces. L’ancien roi (312),
voulant manifester son excellente vertu (313),
donna en partage les flèches des
Sou‑chen à
Ta‑ki (314) ;
il maria celle‑ci au duc Hou,
(descendant) de Yu (315),
en donnant Tch’en en fief (à ce dernier). (Dans
l’antiquité), on attribuait à ceux qui appartenaient à la
famille royale des joyaux, (afin de) renforcer leur amitié ;
on attribuait à ceux qui appartenaient à des familles
étrangères les redevances des pays lointains, afin qu’ils
n’oubliassent pas d’être soumis. C’est ainsi qu’on attribua
à Tch’en les flèches des
Sou‑chen.
On vérifia le fait en opérant des recherches
dans les
p.343 anciens magasins (du palais) et
en effet on y trouva (ces flèches) (316).]
K’ong-tse
demeura trois années dans (le pays de)
Tch’en. A cette époque Tsin
et Tch’ou se contestaient la prédominance et tour à
tour ils attaquaient Tch’en ; Ou aussi
envahissait Tch’en ; Tch’en subissait
constamment des ravages. [
(317)
K’ong-tse
dit :
— Je m’en retourne ! je m’en retourne ! mes
jeunes disciples sont ardents mais négligents ; ils vont de
l’avant pour saisir (la sagesse), mais ils n’oublient pas
leur ancienne nature (318).]
Alors K’ong-tse partit (du pays de)
Tch’en.
p.344 Il passa par
P’ou (319).
En ce moment, le chef de la famille Kong‑chou s’était
révolté dans cette ville (320).
Les gens de P’ou
arrêtèrent K’ong-tse. Parmi ses disciples se
trouvait un certain Kong Leang
Jou ; il suivait K’ong-tse
avec cinq chars qui étaient sa propriété particulière ;
c’était un homme d’âge mûr, et il était sage ; il était
brave et fort. Il dit :
— Auparavant déjà, en vous accompagnant, ô
p.345 maître, je me suis trouvé en
péril à Koang (321).
Si maintenant je me trouve de nouveau en péril ici, c’est
la destinée qui le veut. Puisque pour la seconde fois, ô
maître, je suis pris dans des difficultés avec vous, il vaut
mieux que je meure en combattant.
Il combattit avec une extrême vigueur (322).
Les gens de P’ou
eurent peur et dirent à K’ong-tse :
— Si réellement vous n’allez pas dans le
pays de Wei, nous vous laisserons sortir.
Ils conclurent avec lui une convention jurée et
firent sortir K’ong-tse par la porte orientale (323).
K’ong-tse se rendit immédiatement dans le pays de
Wei (324).
Tse‑kong
lui demanda :
— A‑t‑on le droit de violer un serment ?
K’ong-tse
répondit :
— C’était un serment extorqué par la
violence ; les dieux ne l’ont pas entendu (325).
p.346 Le duc Ling, de Wei,
apprenant la venue de K’ong-tse, fut content et alla
à sa rencontre hors de la ville. Il lui demanda :
— Devons‑nous attaquer
P’ou ?
— Vous le devez, répondit (K’ong-tse).
Le duc Ling reprit :
— Mes grands officiers estiment que nous ne
le devons pas. Maintenant en effet,
P’ou est ce par
quoi Wei se prémunit contre
Tsin et Tch’ou.
L’attaquer avec (les forces mêmes de) Wei, n’est‑ce
pas une chose qu’on ne doit pas faire (326) ?
K’ong-tse dit :
— Dans cette ville, les hommes sont résolus
à mourir (pour leur patrie) (327) ;
les femmes désirent protéger le Si-ho (328) ;
ceux que nous combattrons ne seront que quatre ou cinq
hommes.
p.347 Le duc
Ling approuva
fort ces paroles, mais il n’attaqua pas
P’ou.
Le duc
Ling était
vieux ; il négligeait le gouvernement ; il ne se servit pas
de K’ong-tse. K’ong-tse dit en soupirant
profondément :
[ (329)
— S’il il y avait (un prince) qui fût
capable de se servir de moi, au bout d’un cycle de douze
mois il y aurait déjà un résultat obtenu ; au bout de trois
ans, la perfection serait réalisée. ]
K’ong-tse partit (330).
Pi
Hi
était gouverneur de Tchong‑meou (331) ;
lorsque Tchao Kien-tse
fit la guerre aux familles
Fan et
Tchong-hang
et attaqua Tchong‑meou,
Pi Hi
se révolta. Il envoya des gens inviter K’ong-tse à
venir ; [ (332)
K’ong-tse
était disposé à se rendre auprès de lui ;
Tse-lou (333)
lui dit :
— O maître, moi
Yeou, je vous ai entendu dire :
Lorsqu’un homme agit personnellement d’une manière
mauvaise, le sage n’entre pas (dans son pays). Maintenant
Pi Hi
s’est révolté en personne à
Tchong‑meou et vous désirez vous
rendre auprès de lui. Qu’est‑ce que cela signifie ?
K’ong-tse
répondit :
— Il y a en effet ce dicton. Mais ne dit‑on
pas (aussi) : Ce qui est dur, on peut le frotter sans
l’user ? ne dit‑on pas : Ce qui est blanc, on peut le
plonger dans la teinture sans le rendre
p.348 noir (334) ?
Suis‑je une calebasse qui peut rester pendue sans manger (335) ?]
[ (336)
Comme K’ong-tse jouait de la
pierre sonore, un homme portant un panier pour les herbes
vint à passer devant sa porte et dit :
— Il a du cœur, celui qui joue (ainsi) de
p.349 la pierre sonore ! mais il est
trop opiniâtre ! puisque personne ne l’apprécie, qu’il se
résigne (337).]
[ (338)
K’ong-tse
apprit à jouer du luth (339)
auprès du maître de musique
Siang-tse
(340).
Au bout de dix jours, comme il ne
p.350
progressait pas, le maître de musique
Siang-tse lui
dit :
— Vous pouvez aller plus loin.
K’ong-tse lui
répondit :
— Moi K’ieou,
je me suis exercé aux mélodies (de cette musique), mais je
n’ai pas encore saisi les proportions numériques.
Quelque temps après, (Siang-tse)
lui dit :
— Vous vous êtes exercé aux proportions
numériques ; vous pouvez aller plus loin.
K’ong-tse
répondit :
— Moi K’ieou,
je n’ai pas encore saisi les intentions (de cette musique).
Quelque temps après, (Siang-tse)
lui dit :
— Vous vous êtes exercé aux intentions (de
cette musique) ; vous pouvez aller plus loin.
K’ong-tse
répondit :
— Moi K’ieou,
je n’ai pas encore compris quel homme était (celui qui a
fait cette musique).
Quelque temps après, (Siang-tse)
lui dit :
— Vous avez avec votre air majestueux
quelque pensée profonde : vous avez avec votre air joyeux
quelque haute espérance et quelque intention lointaine (341).
(K’ong-tse)
répondit :
— Moi K’ieou,
j’ai saisi qui était cet homme.
Sous une apparence ténébreuse il est noir (342) ;
p.351 de haute taille, il est grand.
Son regard est celui du mouton qui regarde au loin (343) ;
son cœur est comme celui de quelqu’un qui règne sur les
royaumes des quatre points cardinaux. Si ce n’est le roi
Wen,
qui peut être un tel homme (344) ?
Le maître de musique
Siang-tse quitta sa natte (345)
et se prosterna par deux fois en disant :
— Les maîtres de musique disent en effet que
c’est un air de musique du roi Wen.]
K’ong-tse
n’étant pas parvenu à obtenir un emploi
public dans (le pays de) Wei (346),
se disposa à aller dans l’Ouest rendre visite à Tchao
Kien-tse
(347).
Mais, arrivé au Fleuve (348)
il apprit la mort de Teou Ming-tou
(349)
et de Choen‑hoa.
p.352 Il s’approcha du bord du Fleuve
et dit en soupirant :
« Qu’elle est belle, cette onde dont
l’étendue est immense ! Si moi
K’ieou je ne traverse pas ce
(Fleuve), c’est la Destinée qui l’a voulu.
Tse‑kong,
s’avançant promptement vers lui, lui dit :
— Permettez‑moi de vous demander pourquoi
vous dites cela.
K’ong-tse
répondit :
— Teou Ming-tou
et
Choen hoa étaient de sages grands
officiers du royaume de Tsin.
Tant que Tchao Kien-tse
ne fut point parvenu à ses fins,
il eut besoin de ces deux hommes pour pouvoir plus tard
exercer le gouvernement ; mais ensuite, quand il fut parvenu
à ses fins, il tua (ces deux hommes) et alors exerça le
gouvernement. Moi K’ieou,
j’ai entendu dire ceci : Quand on fend les matrices pleines
pour tuer les êtres prématurément, le
k’i et le
lin (350)
ne viennent pas dans la banlieue ; lorsqu’on dessèche les
étangs pour prendre les poissons en les mettant à sec, le
dragon kiao (351)
ne maintient pas l’harmonie entre les principes
yn et
yang ; lorsqu’on
renverse les nids pour briser les neufs, le
fong et le
hoang (352)
n’arrivent pas en voltigeant. Qu’est‑ce à dire ? C’est que
le sage s’éloignera de celui qui fait du mal à ceux qui lui
sont semblables ; en effet, si les oiseaux et
p.353 les quadrupèdes eux‑mêmes, en
ce qui concerne ceux qui se conduisent contrairement à la
justice, savent les éviter, à combien plus forte raison, moi
Kieou
(devrai-je agir de même) (353) !
Alors il revint sur ses pas, et, s’étant reposé
dans le bourg de Tseou (354),
il y composa le chant Tseou (355)
afin d’exprimer son affliction à ce sujet. Puis il revint
dans le pays de Wei et alla demeurer dans la maison
de K’iu Po‑yu (356).
Un autre jour, [ (357)
le duc Ling
l’interrogea sur la manière de disposer les rangs des
soldats. K’ong-tse lui dit :
— Ce
p.354 qui concerne les étals et les
vases (358),
je m’en suis enquis depuis longtemps. Mais ce qui concerne
les armées et les bataillons, je ne l’ai jamais étudié (359).]
Le lendemain, (le duc
Ling)
s’entretenait avec K’ong-tse
(360)
lorsqu’il vit une oie sauvage qui volait ; il leva la tête
pour la regarder et parut ne plus s’occuper de K’ong-tse
(361).
K’ong-tse aussitôt partit. Il se rendit de nouveau
dans (le pays de) Tch’en (362).
En été (493), le duc
Ling, de
Wei, mourut. On mit sur le trône son petit‑fils Tchao ;
ce fut le duc Tch’ou, de Wei. [ (363)
Le sixième mois, Tchao Yang
réinstalla l’héritier présomptif
K’oai-wai dans (la ville de)
Ts’i (364).
Yang Hou
fit prendre le bonnet de deuil à l’héritier présomptif et
chargea huit hommes, portant le pectoral et la ceinture de
deuil, de se prétendre faussement venus de Wei pour
l’accueillir. (K’oai-wai)
fit son entrée en pleurant (dans la ville de Ts’i) et
s’y installa (365)].
p.355 En hiver, (le prince de)
Ts’ai transféra (sa capitale) à Tcheou‑lai (366).
Cette année était la troisième année (492) du duc
Ngai ;
K’ong-tse était
alors âgé de soixante ans (367).
Ts’i aida Wei (368)
à assiéger (la ville de) Ts’i parce que l’héritier
présomptif K’oai-wai
s’y trouvait.
En été (492), les temples
funéraires (des ducs) Hoan
(711‑694) et Hi
(659‑627), de Lou, furent incendiés.
Nan-kong King‑chou
prit les mesures de secours en cette
p.356 occasion (369).
K’ong-tse,
qui se trouvait dans (le pays de) Tch’en, apprit
(qu’il y avait eu un incendie) (370)
et dit :
— Cette calamité a dû atteindre les temples
funéraires (des ducs) Hoan
et Hi.
Plus tard, on sut qu’il en avait été réellement
ainsi.
p.357 En automne (492),
Ki Hoan-tse tomba
malade ; porté dans une voiture tirée par des hommes, il
vint visiter la ville (capitale du pays) de Lou et
dit en soupirant profondément :
— Ce royaume a failli devenir prospère ;
p.358 mais, parce que j’ai commis une
faute à l’égard de K’ong tse (371),
il n’a point été prospère.
Il fit ses dernières recommandations à son
héritier (Ki)
Kang-tse
en lui disant :
— Quand je serai mort, vous deviendrez
certainement conseiller (du prince) de Lou. Quand
vous serez conseiller du prince de Lou, ne manquez
pas d’appeler auprès de vous Tchong-ni.
Quelques jours après, (Ki)
Hoan-tse
mourut ; (Ki)
K’ang-tse lui succéda dans ses
dignités. Quand il eut fait les funérailles (de son père),
il voulut appeler auprès de lui Tchong-ni ; (mais)
Kong Tche-yu
lui dit :
— Autrefois, votre père défunt donna un
emploi à K’ong-tse, mais ne le garda pas jusqu’au
bout, et, en définitive, fut la risée des seigneurs. Si
maintenant vous le reprenez à votre service et que vous ne
puissiez pas le garder jusqu’au bout, vous serez de rechef
la risée des seigneurs.
(Ki)
K’ang-tse
demanda :
— Qui dois‑je alors appeler auprès de moi ?
(Kong Tche-yu) lui répondit :
— Il vous faut appeler Jan K’ieou (372).
Alors (Ki K’ang-tse) envoya un messager
mander Jan K’ieou. Jan K’ieou se disposant à
partir, K’ong-tse dit :
— Si les gens de Lou mandent (Jan)
K’ieou, ce n’est pas pour l’employer à de petites
choses, c’est pour l’employer à de grandes choses.
Ce même jour, K’ong-tse dit :
p.359 [ (373)
— Je m’en retourne ! je m’en
retourne ! Mes jeunes disciples sont ardents, mais
négligents ; ils réalisent (parfois) avec élégance la
perfection, mais ils (374)
ne savent comment régler (leur conduite).]
Tse‑kong, sachant
que K’ong-tse songeait à revenir (dans le pays de
Lou), accompagna Jan K’ieou et en profita
pour lui donner cet avertissement :
— Quand vous serez entré en charge, faites
en sorte que K’ong-tse soit appelé.
Jan Kieou partit
alors.
L’année suivante (491),
K’ong-tse se transporta (du pays) de Tch’en dans
celui de Ts’ai (375).
Le duc Tchao, de Ts’ai, se disposait (alors) à
se rendre auprès (du roi) de Ou, car (le roi de)
Ou l’avait mandé ; comme le duc Tchao avait
précédemment (493), en trompant ses ministres,
p.360 transféré
(sa capitale) à Tcheou‑lai, lorsque, plus tard (491)
il se disposa à aller (auprès du roi de Ou), ses
grands officiers craignirent qu’il ne fît un nouveau
transfert (de capitale) ; (aussi) Kong‑suen P’ien
tua‑t‑il à coups de flèches le duc Tchao (491) (376).
(Le roi de) Tch’ou envahit (alors le territoire de)
Ts’ai. En automne, le duc King, de Ts’i,
mourut (377).
L’année suivante (489) (378),
K’ong-tse partit de Ts’ai pour aller dans (la
ville de) Che (379).
[ (380)
Le gouverneur de Che
interrogea sur le gouvernement K’ong-tse qui lui
p.361
répondit :
— Le bon gouvernement consiste à attirer à
soi ceux qui sont éloignés, et à attacher à soi ceux qui
sont proches (381).]
Un autre jour, [ (382)
le gouverneur de Che
interrogea Tse‑Lou au sujet de K’ong-tse et
Tse‑Lou ne lui répondit pas (383).
K’ong-tse, l’ayant appris, dit :
— Vous, Yeou (384),
pourquoi ne lui avez‑vous pas répondu : C’est un homme] qui
étudie la sagesse sans se lasser, qui enseigne les hommes
sans en éprouver de satiété (385),
[qui a une telle ardeur (pour atteindre la vertu) qu’il en
oublie de manger, qui a une telle joie (quand il l’a
obtenue) qu’il en oublie ses tristesses, et qui ne
s’aperçoit pas que la vieillesse arrive (386) ?
(K’ong‑tse) partit de Che et
revint à Ts’ai (387).
p.362 [ (388)
Tch’ang‑tsiu
et Kie‑ni (389)
étaient ensemble à labourer. K’ong-tse, jugeant que
c’étaient des (sages) qui se cachaient (390),
envoya Tse-lou leur demander où était le gué.
Tch’ang‑tsiu dit :
— Celui qui tient les rênes dans le char,
qui est‑ce ?
Tse-lou
répondit :
— C’est K’ong‑ K’ieou.
L’autre dit :
— Est‑ce donc K’ong K’ieou,
(du pays) de Lou (391) ?
Sur la réponse affirmative (de Tse-lou),
il dit :
— Cet homme connaît le gué (392).
Kie‑ni demanda à
Tse-lou :
— Qui
p.363 êtes‑vous ?
— Je suis Tchong Yeou, répondit‑il.
—
Êtes-vous, ajouta (Kie‑ni), disciple de Kong
K’ieou ?
Sur sa réponse affirmative, Kie‑ni dit :
— Comme cette immensité désordonnée (393),
ainsi est tout l’empire. Qui pourrait le changer ? Plutôt
donc que de suivre un sage qui évite (tel ou tel) homme, ne
vaudrait‑il pas mieux suivre les sages qui évitent le monde
(entier) (394) ?
Il se mit à recouvrir les semences (395)
sans s’arrêter. — Tse-lou rapporta (ces paroles) à
K’ong-tse. K’ong-tse dit avec abattement :
— Les oiseaux et les bêtes sauvages, nous ne
pouvons nous associer avec eux et vivre en leur compagnie (396).
Si l’empire était bien ordonné, qu’aurais‑je besoin de le
changer ?]
Un autre jour, [ (397)
(Tse-lou rencontra sur sa
route un vieillard qui portait sur l’épaule un panier, et
lui demanda :
— Avez‑vous vu le Maître ?
Le vieillard répondit :
— Vos quatre membres ne se donnent pas de
p.364 peine ; les cinq espèces de
céréales ne sont pas distinguées (par vous). Qui est le
Maître (398) !
Il enfonça son bâton dans le sol et se mit à
sarcler. Tse‑Lou raconta ce qui s’était passé à
K’ong-tse qui dit :
— C’est un sage) qui se cache.
(Tse-lou) retourna (là où il avait vu le
vieillard), mais celui-ci avait disparu.]
K’ong-tse
s’était transporté dans (le pays de)
Ts’ai depuis trois ans (491‑489), lorsque (le roi de)
Ou attaqua (le pays de) Tch’en. (Le roi de)
Tch’ou vint au secours de Tch’en et campa à
Tch’eng‑fou (399)
(489) ; il apprit que K’ong-tse se trouvait dans la
région comprise entre Tch’en et Ts’ai (400) ;
(le roi de) Tch’ou envoya des gens apporter des
présents à K’ong-tse pour l’inviter à venir.
K’ong-tse se disposait à aller (l’en remercier en) le
saluant suivant les rites ; mais les grands officiers de
Tch’eu et de Ts’ai firent un complot entre eux,
en disant :
— K’ong-tse est
un sage ; tous les blâmes qu’il formule atteignent les
défauts des seigneurs. Maintenant, il a longtemps séjourné
dans la région comprise entre
p.365 Tch’en
et Ts’ai ; la conduite que nous tenons, nous les
grands officiers, n’est en rien conforme aux intentions de
Tchong‑ni. Maintenant, (le roi de) Tch’ou
(règne sur) un grand royaume ; il a apporté des présents à
K’ong-tse pour l’inviter à venir ; si K’ong-tse
trouve un emploi auprès (du roi) de Tch’ou, les
grands officiers qui exercent le gouvernement à Tch’en
et à Ts’ai seront en péril.
Ils s’entendirent donc pour envoyer des
satellites qui cernèrent K’ong-tse dans la campagne
et l’empêchèrent d’avancer (401).
p.366 [ (402)
Les vivres firent défaut (403) ;
ceux qui l’accompagnaient tombèrent malades et devinrent
incapables de se lever ;] K’ong-tse (cependant)
discourait et récitait, jouait d’un instrument à cordes et
chantait sans se laisser abattre. [Tse-lou,
manifestant un vif déplaisir, vint à lui et dit :
— Le sage lui aussi doit‑il être en
détresse ?
K’ong-tse
répondit :
— Le sage supporte avec fermeté d’être en
détresse (404) ;
mais quand l’homme vulgaire est
p.367 en détresse, il ne connaît plus
aucun frein.]
Tse-lou rougit (405).
[ (406)
K’ong-tse
dit :
— Vous, Se (407),
vous pensez sans doute que je suis un homme qui a appris
beaucoup de choses et qui les sait.
(Toan‑mou Se) répondit :
— Oui. Ne serait‑ce pas exact ?
K’ong-tse
répondit :
— Ce n’est pas exact. Je n’ai que le seul
principe qui fait tout comprendre.]
K’ong-tse,
sachant que ses disciples avaient de l’irritation dans leur
cœur, appela Tse-lou (408)
et lui demanda :
— Il est dit dans le Che (king) :
« Nous ne sommes ni des
rhinocéros ni des tigres pour nous tenir dans ces régions
désertes (409).
Ma sagesse serait‑elle en faute ? Pourquoi
me trouvé‑je dans une telle situation ?
Tse-lou
répondit :
— A mon avis, c’est parce que nous ne sommes
point encore bons que les hommes ne nous croient pas ; à mon
avis, c’est parce que nous ne sommes point encore sages que
les hommes ne mettent pas en pratique nos préceptes (410).
Kong-tse
répliqua :
— En
p.368 serait‑il ainsi ? O Yeou,
pour prendre des exemples, si l’homme bon était
nécessairement cru, comment y aurait‑il eu Po‑i et
Ch’ou-ts’i (411) ?
si l’homme sage voyait nécessairement ses préceptes mis en
pratique, comment y aurait‑il eu le fils de roi Pi-kan (412) ?
Tse-lou étant
parti, Tse‑kong se présenta. K’ong-tse lui
dit :
— O Se (413),
il est dit dans le Che (king) :
« Nous ne sommes
p.369 ni
des rhinocéros ni des tigres pour nous tenir dans ces
régions désertes.
Ma sagesse serait‑elle en faute ? Pourquoi
me trouvé‑je dans une telle situation ?
Tse-kong répondit :
— Votre sagesse, ô Maître, est d’une
grandeur extrême. C’est pourquoi il n’est personne dans
l’empire qui puisse vous admettre. O maître, vous devriez
vous abaisser un peu.
K’ong-tse
répliqua :
« O Se, un bon laboureur peut semer,
mais il n’est pas sûr qu’il puisse récolter ; un bon artisan
peut être habile, mais il n’est pas sûr qu’il puisse plaire
(au goût des clients) ; l’homme supérieur peut mettre en
pratique sa sagesse ; les règles essentielles, les
maintenir ; les principes généraux, les observer ; mais il
n’est pas sûr qu’il puisse se faire admettre. Maintenant,
quand vous dites qu’il ne faut pas mettre en pratique la
sagesse qu’on possède, mais chercher à se faire admettre, ô
Se, vos visées ne sont pas à longue portée.
Tse‑kong étant
parti, Yen Hoei se présenta. K’ong-tse lui
dit :
— O Hoei, il est dit dans le Che
(king) :
« Nous ne sommes ni des rhinocéros ni des tigres pour nous
tenir dans ces régions désertes.
Ma sagesse serait‑elle en faute ? Pourquoi
me trouvé‑je dans une telle situation ?
Yen Hoei
répondit :
— Votre sagesse, ô Maître est d’une grandeur
extrême ; c’est pourquoi il n’est personne dans l’empire
qui. puisse vous admettre ; cependant, ô Maître, continuez
sans relâche à la mettre en pratique : si on ne vous admet
pas, quel mal y a‑t‑il à cela ? si on ne vous admet pas,
plus tard pourtant on reconnaîtra en vous l’homme supérieur (414).
Quand la sagesse n’est pas mise en pratique (par nous),
c’est une honte pour nous ; mais
p.370 quand la sagesse s’est trouvée
pleinement réalisée par nous et qu’on ne nous emploie pas,
c’est une honte pour ceux qui possèdent des royaumes. Si on
ne vous admet pas, quel mal y a‑t‑il à cela ? Si on ne vous
admet pas, plus tard pourtant on reconnaîtra en vous l’homme
supérieur.
K’ong-tse se
montra content et dit en riant :
— Vous avez raison. O enfant de la famille
Yen, si vous aviez beaucoup de richesses, je serais
votre intendant (415).
p.371 Ensuite, (K’ong‑tse)
envoya Tse‑kong à Tch’ou (416).
Le roi Tchao, de Tch’ou, mit en campagne des
soldats qui vinrent au devant de K’ong-tse, et c’est
ainsi qu’il put échapper.
Le roi Tchao se
proposait de donner en fief à K’ong-tse
(417)
un territoire comprenant sept cents groupes de familles (418)
p.372 enregistrées ;
le ling‑yn de Tch’ou, Tse‑si (419),
lui dit :
— Parmi les ambassadeurs que Votre Majesté
envoie auprès des seigneurs, en est‑il qui vaillent
Tse‑kong ?
La réponse étant négative, il reprit :
— Parmi les conseillers d’État de Votre
Majesté, en est‑il qui vaillent Yen Hoei ?
La réponse étant négative, il ajouta :
— Parmi les généraux de Votre Majesté, en
est‑il qui vaillent Tse-lou ?
La réponse étant négative, il ajouta :
— Parmi les fonctionnaires de Votre Majesté, en
est‑il qui vaillent Tsai Yu
(420) ?
La réponse ayant encore été négative,
p.373 il reprit :
— En outre, l’ancêtre (des rois) de
Tch’ou reçut l’investiture des Tcheou qui lui
conférèrent le titre de vicomte ou de baron et un territoire
de cinquante li. Maintenant K’ong-tse se
conforme aux règlements des trois premières dynasties et
remet en honneur la politique (des ducs) de Tcheou
et de Chao (421).
Si Votre Majesté le prend à son service, comment (le
royaume de) Tch’ou pourra‑t‑il devenir de génération
en génération de plus en plus magnifique et occuper une
étendue de plusieurs milliers de li ? (D’autre part),
lorsque le roi Wen était à Fong et lorsque le
roi Ou était à Hao, ils n’étaient princes que
d’un pays de cent li (422) ;
en définitive cependant ils régnèrent sur l’empire entier.
Maintenant si K’ong K’ieou devient maître d’un
territoire et s’il a pour l’aider ses disciples sages, cela
ne peut porter bonheur à Tch’ou (423).
Alors le roi Tchao renonça (à son
projet). Dans l’automne de cette année‑là (489), le roi
Tchao mourut à Tch’eng‑fou (424).
[Le fou (du pays) de Tch’ou
Sở-cuồng, Tsie‑yu Tiếp-Dư
(425),
passa en
p.374 chantant devant K’ong-tse
; il disait :
— O phénix ! O
phénix !
p.375 combien
ta vertu est dégénérée (426) ;
pour ce qui est passé, les reproches sont inutiles, mais,
pour l’avenir, on peut encore aller à ta poursuite (pour
t’empêcher d’aller plus loin) (427).
Cesse ! Cesse ! Dans le temps présent, les hommes qui
prennent part au gouvernement sont en péril (428).
K’ong-tse
descendit (de son char) (429)
dans l’intention de causer avec lui, mais il se retira en
toute hâte, et (K’ong-tse) ne put lui parler.]
Alors K’ong-tse revint (du pays) de
Tch’ou (430)
dans celui
p.376 de Wei. En cette
année‑là, K’ong-tse avait soixante‑trois ans et
c’était la sixième année (489) du duc Ngai, de Lou
Lỗ Ai-công.
L’année suivante (488), (le
roi de) Ou et (le duc de) Lou eurent une
entrevue à Tseng (431).
(Le roi de Ou) exigea cent groupes de victimes. Le
premier ministre (de Ou), (Po) P’i manda Ki
Kang-tse ; (Ki) K’ang-tse chargea
Tse‑kong (432)
de se rendre auprès de lui et c’est ainsi qu’il put mettre
fin (à cette affaire) (433).
[ (434)K’ong-tse
dit :
— Les gouvernements de Lou et de
Wei sont frères (435).]
p.377 En ce temps, le père de Tcho,
prince de Wei, n’avait pu monter sur le trône et se
trouvait à l’étranger (436) ;
les seigneurs avaient souvent fait des remontrances à ce
sujet (au prince de Wei). (D’autre part), un grand
nombre de disciples de K’ong-tse étaient investis de
charges publiques dans le pays de Wei. Le prince de
Wei désira s’attacher K’ong-tse afin de lui
confier le gouvernement (437).
p.378 [ (438)
Tse‑Lou
dit (à K’ong-tse) :
— Le duc de Wei vous retient pour
vous confier le gouvernement. Que considérerez-vous comme
la première (tâche à entreprendre) ?
K’ong-tse
répondit :
— L’essentiel, c’est de rendre les
dénominations correctes (439).
Tse‑Lou dit :
— En est‑il vraiment
p.381 ainsi ? Maître, vous vous
égarez (440).
A quoi bon cette correction ?
K’ong-tse
répliqua :
— Que vous êtes simple, ô Yeou (441).
Si les dénominations ne sont pas correctes,
p.384 les paroles ne sont pas
conformes (à la réalité des choses) ; si les paroles ne sont
pas conformes (à la réalité des choses), les entreprises ne
réussissent pas ; si les entreprises ne réussissent pas, les
rites et la musique ne sont pas florissants ; si les rites
et la musique ne sont pas florissants, les supplices et les
punitions ne sont pas équitables ; si les supplices et les
punitions ne sont pas équitables, le peuple ne sait où
mettre la main ni le pied (442).
Ainsi le sage peut certainement dénommer
p.385 ce qu’il fait (443)
et peut certainement mettre, à exécution ce qu’il dit.
L’homme supérieur, dans ses paroles, ne (prononce) rien à la
légère (444) ».
L’année suivante (484),
Jan Yeou (445),
étant à la tête de l’armée pour le compte de Ki (K’ang‑tse),
combattit contre Ts’i à Leang (446)
et le vainquit. Ki K’ang-tse lui demanda :
— Vos talents militaires sont‑ils acquis par
l’étude, ou vous sont‑ils innés ?
Jan Yeou
répondit :
— Je
p.386 les ai acquis en étudiant
auprès de K’ong‑tse.
Ki K’ang-tse
reprit :
— Quelle sorte d’homme est K’ong-tse
?
(Jan Yeou) répondit :
— Si on lui donne une fonction publique, il
aura de la gloire (447) ;
quand il annoncera (448)
au peuple (ce qu’il aura fait) et quand il interrogera à ce
sujet les divinités (449),
nul ne sera mécontent (450) ;
ce qu’il recherche,
p.387 c’est d’atteindre à cette
conduite vertueuse (451).
Même si vous accumulez autour de lui mille groupes de
familles (452)
(pour les lui donner en apanage), K’ong-tse n’en
tirera pas d’avantage personnel (453).
(Ki) K’ang-tse dit :
— Je désire le mander auprès de moi. Est‑ce
possible ?
(Jan Yeou) répondit :
— Si vous désirez le mander auprès de vous,
ne le traitez pas avec étroitesse (454)
comme vous feriez pour un homme de peu ; dans ces
conditions ce sera possible.
Cependant, dans le pays de Wei, [ (455)
K’ong Wen-tse
(456),
se
p.388 disposant à attaquer
T’ai-chou (457),
demanda à Tchong‑ni de lui proposer un plan
(d’attaque) ; Tchong‑ni s’excusa en disant qu’il n’y
connaissait rien (458) ;
puis, s’étant retiré, il donna des ordres pour qu’on attelât
son char et pour partir ; il dit (alors) :
— L’oiseau peut choisir l’arbre (sur lequel
il se pose) ; mais comment l’arbre pourrait‑il choisir
l’oiseau (459) ?
(K’ong) Wen-tse s’efforçait de
le retenir lorsque Ki K’ang-tse envoya (460)
l’honorable Hoa, l’honorable Pin et
l’honorable Lin, avec des présents,
p.389 au‑devant de K’ong‑tse.
K’ong-tse revint (donc) dans (le pays de) Lou.]
K’ong-tse
était parti de Lou depuis quatorze années en tout (461)
lorsqu’il revint dans (le pays de) Lou.
Le duc Ngai ayant
interrogé (K’ong-tse) sur le gouvernement, il
répondit :
— Le gouvernement consiste à (savoir)
choisir les ministres (462).
Ki K’ang-tse
ayant interrogé (K’ong‑tse) sur le gouvernement, il
répondit :
[ (463)
— (Le bon gouvernement consiste à)
élever les bons et à placer les méchants (dans des places
inférieures) (464) ;
alors les méchants deviendront bons.]
[ (465)
(Ki) K’ang-tse se
plaignant des voleurs, K’ong-tse lui dit :
— Si vous
p.390 n’aviez pas de convoitises,
même si vous offriez des récompenses on ne déroberait pas (466).]
En définitive cependant, Lou (467)
ne put pas confier de fonctions à K’ong-tse, et
K’ong-tse de son côté ne demanda aucune charge
officielle.
A l’époque de K’ong-tse,
la maison des Tcheou s’était amoindrie et les rites
et la musique avaient été négligés : le Che et le
Chou (468)
étaient devenus défectueux. (K’ong-tse) rechercha et
suivit à la piste les (textes relatifs aux) rites des trois
dynasties.
Il fit des préfaces aux
récits du Chou (469) ;
en haut, il mit
p.391
en ordre les temps de T’ang (Yao)
et de Yu (Choen) ; en bas, il arriva jusqu’au
(duc) Mou, de Ts’in (470).
Il groupa et classa les
sujets dont ils traitaient (471).
Il disait :
[
(472)
— Les rites des Hia, je puis
en parler, mais K’i ne fournit pas une vérification
suffisante ; les rites des Yin, je puis en parler,
mais Song ne fournit pas une vérification
suffisante (473).
Si (ces deux royaumes) suffisaient (à
p.392
la vérification), moi je pourrais (à mon
tour) fournir la vérification (de mes dires (474)).]
Considérant les
p.394 suppressions et les additions
faites par les Ya et les Hia, il disait :
[ (475)
— Même dans cent générations on
pourra les connaître (476)].
Tant pour la forme que pour le fond, [les
p.395
Tcheou
ont observé les deux dynasties (477).
Très achevée est la perfection (de leurs rites). Je me
conformerai aux (rites des) Tcheou (478).
p.396 Ainsi les récits du Chou
et les mémoires sur les rites (479)
nous viennent de K’ong (tse).
[ (480)
K’ong-tse
tint ce discours au grand maître de la
musique (481)
(du pays) de Lou :
— La musique, on peut la connaître (482).
Lorsque le début se produit (483),
il y a accord. Quand on donne carrière (aux autres
instruments) (484),
il
p.397 y a harmonie, il y a
distinction, il y a continuité (485),
et ainsi se réalise (la musique parfaite.)] [ (486)
Depuis que je suis revenu (du pays)
de Wei dans celui de Lou, la musique a été
rendue correcte : le ya et le song ont été
chacun mis à leur place (487).
p.398 Autrefois, le Che (488)
comprenait plus de trois mille pièces. Lorsque vint
K’ong-tse, il supprima celles qui faisaient double
emploi et ne conserva que celles qui pouvaient être utiles
pour les rites et la justice. En haut, il recueillit (celles
qui concernaient) Sie et Heou‑tsi (489) ;
au milieu, il transmit (celles qui se rapportaient aux)
temps prospères des Yn et des Tcheou ; il
arriva jusqu’à (celles qui traitaient des) époques
défectueuses, des (rois) Yeou et Li (490).
Commençant aux nattes sur lesquelles on se couche, ce qui
est la raison de l’expression « les désordres de (l’ode)
Koan ts’iu (491) »,
il en fit le
p.399 commencement du fong ;
de (l’ode) lou ming, il fit le commencement du
siao ya ; de (l’ode) Wen wang, il fit le
commencement du ta ya ; de (l’ode) ts’ing miao,
il fit le
p.400 commencement du song (492).
Il y eut trois cent cinq pièces (493)
que K’ong-tse jouait sur la cithare et chantait, afin
de chercher à les accorder avec les harmonies (des
musiques) chao, ou, ya et song (494).
A partir de ce moment, les
rites et la musique purent être connus et transmis afin de
montrer au complet la conduite qui convient au souverain et
afin de rendre parfaites les six disciplines (495).
K’ong-tse
sur le tard, se plut au I (496),
au siu, au t’oan, au hi, au siang,
au chouo koa et au wen yen (497).
Quand il
p.402 lisait le I, les
lanières de cuir se rompirent trois fois (498).(Vi
biên tam-tuyệt) Il dit :
[ (499)
— Si on me donnait en plus (500)
quelques années (que je pusse employer) ainsi, je
parviendrais à une connaissance parfaite du I (501).](Gia
ngã sổ niên, tốt dĩ học Dịch, khả dĩ vô Đại-quá !)
p.403 K’ong-tse
prenait pour matière de son enseignement le
Che (les Poésies) Thi, le Chou (les Documents
historiques) Thư, les Rites Lễ et la Musique Nhạc. Ses
disciples doivent avoir été au nombre de trois mille. Ceux
qui personnellement comprirent entièrement les six
disciplines (502)
furent au nombre de soixante‑douze (503).
Quant à ceux qui,
p.404 comme Yen, Tchouo
et Tsiu (504),
reçurent quelques parties de sa doctrine, ils furent
extrêmement nombreux.
[ (505)
K’ong-tse
enseignait quatre choses : les sujets
d’instruction (506),
les devoirs sociaux (507),
le loyalisme et la bonne foi.] [ (508)
Il s’était affranchi de quatre
choses Tử tuyệt tứ: il s’abstenait de présumer ; il
s’abstenait des résolutions arbitraires ; il n’avait pas
d’obstination ; il n’avait pas d’égoïsme,]
[ (509)
Ce à quoi il était attentif,
c’étaient les cas de jeûne, de combat (510),
de maladie]
p.405
[ (511)
Le Maître parlait rarement de
l’avantage, de la destinée et de la bonté absolue (512).]
[ (513)
Devant celui qui ne manifestait pas
un vif désir (d’apprendre), il ne s’expliquait pas (514) ;
quand il avait montré un coin (d’une question) (515),
si on ne lui répondait
p.406 pas (en témoignant qu’on avait
vu) les trois autres coins, il ne recommençait pas (sa
leçon).]Cử nhất ngung bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục
dã).
[ (516)
Lorsqu’il était dans son village, il
paraissait saisi de respect et semblait quelqu’un qui
n’osait pas parler (517).
Lorsqu’il était dans le temple ancestral (518)
ou aux p.407
audiences de la cour, il discourait
avec beaucoup de netteté, mais en restant attentif.]
[ (519)
Lorsqu’il était à la cour (avant
l’audience), il s’entretenait avec les grands officiers
supérieurs d’une manière correcte et cérémonieuse ; il
s’entretenait avec les grands officiers inférieurs d’une
manière aimable et enjouée (520).
]
p.408 [ (521)
Quand il entrait par la porte du duc (522),
c’était en pliant
p.409
son corps (523) ;)
[il s’avançait rapidement en étendant (ses bras comme) des
ailes. (524)]
p.410 [(525)
Quand le prince l’appelait pour le
charger de recevoir un hôte (526),
il changeait (527)
de couleur.]
[ (528)
Quand il était appelé par un ordre du
prince, il n’attendait pas que sa voiture fût prête (529).]
[ (530)
Quand le poisson était trop avancé ou
quand la viande était gâtée,] [ou quand (la nourriture)
n’était pas coupée régulièrement, il ne mangeait pas.]
p.411 [ (531)
Quand sa natte n’était pas disposée
régulièrement, il ne s’asseyait pas (532).](Tịch
bất chính, bất toạ = Chiếu không ngay, không ngồi).
[ (533)
Quand il mangeait à côté d’une
personne en deuil, il ne mangeait jamais de manière à se
rassasier. — Le jour où il avait fait des lamentations (sur
un mort), il ne chantait pas,]
[ (534)
Quand il voyait un homme en deuil ou
un aveugle, même si c’était un jeune garçon, il ne manquait
pas de changer de contenance.]
[ (535)
(Le Maître disait) : « Quand nous
sommes trois hommes allant ensemble (536),
je trouve là mes maîtres (537).](Tam
nhân đồng hành tắc hữu ngã sư yên).
p.412 [ (538)
(Le Maître disait) :
— Que, lorsqu’il s’agit de la vertu, on ne
la pratique pas constamment, que, lorsqu’il s’agit de
l’étude, on ne s’y exerce pas par la discussion, que,
lorsqu’on apprend ce qui est juste, on ne s’y porte pas (539),
que, lorsqu’on fait ce qui n’est pas bien, on ne se corrige
pas, voilà ce qui me tourmente (540).
]
[ (541)
Quand il faisait chanter un homme, si
c’était bien il le faisait recommencer et alors il
l’accompagnait.]
[ (542)
Le Maître ne discourait pas sur les
prodiges, les tours de force (543),
les actes de rébellion et les êtres surnaturels (544).
(Tử bất ngứ : quái, lực, loạn, thần).
[ (545)
Tse‑kong
dit :
— Les enseignements du Maître sur les arts
libéraux, on peut les apprendre ; mais les paroles du Maître
sur la voie céleste ainsi que sur la nature humaine et la
destinée, on ne peut les apprendre (546).]
p.413 [ (547)Yen‑Yuen
Nhan-Uyên dit en poussant un profond soupir :
— Lorsque je levais la tête pour regarder
(les enseignements du Maître), ils me semblaient de plus en
plus élevés ; quand je les creusais, ils me semblaient de
plus en plus résistants ; quand je les considérais devant
moi, soudain ils se trouvaient derrière moi. Le Maître,
d’une manière très méthodique, excelle à guider les hommes.
Il m’a développé par l’instruction et m’a contenu par les
rites. Quand je voulais renoncer (à l’étude de ces
enseignements), je ne le pouvais pas ; après avoir épuisé
toutes mes capacités, il y avait encore comme quelque chose
de très élevé qui se dressait (devant moi) ; quand bien même
je voulais y atteindre, je ne trouvais pas le moyen de le
faire. ]
p.414 [ (548)
Un jeune garçon du canton de Ta‑Hiang (549)
dit :
— Vraiment grand est K’ong-tse ; il
a des connaissances vastes sans avoir acquis de réputation
en quelque spécialité.
Le Maître ayant appris ce propos, dit :
— A quoi m’attacherai-je ? m’attacherai-je
à l’art de conduire un char ou m’attacherai-je au tir à
l’arc ? Je m’attacherai à l’art de conduire un char !]
[ (550)
Lao (551)
dit :
— Le Maître disait : C’est parce que je
n’avais pas de fonction publique que je me suis adonné aux
arts libéraux.]
p.415 [ (552)
La quatorzième année (481) du duc
Ngai, de Lou, au printemps, on chassa à Ta‑ye (553).
Tch’ou‑chang, conducteur d’un des chars de
Chou‑suen, captura un animal (étrange) (554) ;
il pensait que c’était un mauvais
p.416 présage (555)
‑ Tchong‑ni vit (cet animal) et dit :
— C’est un lin lân.
(Alors) on l’emporta (556).]
[ (557)
(Le Maître) dit :
— Le Ho ne produit plus le Tableau] ;
le Lo ne produit plus l’Écrit. [C’en est fini de moi (558).]
p.417 [ (559)Yen
Yuen (560)
étant mort, K’ong-tse dit :
— Le Ciel veut ma mort (561). ]
Puis, lors de la chasse du
côté de l’Ouest (562),
il vit le lin et dit :
— Ma carrière est terminée (563).
[ (564)
Il dit en poussant un profond
soupir :
— Personne ne me connaît.
Tse‑kong lui
demanda :
— Que signifie ceci que personne ne vous
connaît ?
Le Maître
p.418 répondit :
— Je ne suis pas irrité contre le Ciel et je
ne blâme pas les hommes. Puisque j’étudie ce qui est en bas
et que je pénètre ce qui est en haut, celui qui me
connaîtra, ce sera sans doute le Ciel (565).][ (566)
Ceux (567)
qui ne soumirent pas leur volonté et qui ne laissèrent subir
aucun affront à leur personne, est‑ce que ce ne furent pas
po I et chou Ts’i (568) ?
On peut dire de Hoei (originaire) de Lieou‑hia (569),
et de Chao‑Lien (570)
qu’ils soumirent leur volonté et qu’ils
p.419 exposèrent aux affronts leur
personne (571) ;
on peut dire de Yu‑tchong (572)
et de I-i (573)
qu’ils restèrent dans la retraite et qu’ils gardèrent le
silence (574) ;
lorsqu’ils agirent, ils se conformèrent à la pureté ;
lorsqu’ils se retirèrent, ils se conformèrent aux
circonstances. Pour moi, je suis différent de ces hommes. Il
n’est pas (de règle fixe) pour que j’aille de l’avant et il
n’est pas (de règle fixe) pour que je m’abstienne (575).]
Le Maître dit :
— Non ! non (576) !
[ (577)
L’homme supérieur s’affligerait que
sa bonne renommée ne fût pas célébrée
p.420 après sa mort (578).]
Puisque ma doctrine n’a pas été mise en pratique, par quoi
me ferai-je connaître à la postérité ?
Alors, en se servant des mémoires des
historiens (579),
il composa (580)
le Tch’oen‑ts’ieou (581).
En remontant, il alla jusqu’au duc Yn (722‑712) ; en
descendant, il arriva
p.421 jusqu’à la quatorzième année
(481) du duc Ngai, (embrassant ainsi les règnes de)
douze ducs. Se fondant sur le fait que (les princes de)
Lou étaient apparentés aux (rois de la dynastie)
Tcheou, il transporta donc dans (leur histoire des
récits concernant) les trois dynasties (582).
Il condensa son style, mais en lui faisant indiquer
beaucoup de choses (583) :
c’est ainsi que les princes de Ou et de
p.422 Tch’ou
se donnaient le titre de roi ; or le Tch’oen‑ts’ieou
les rabaisse en les appelant des vicomtes ; lors de la
réunion de Tsien‑t’ou (632), le Fils du Ciel (la
dynastie) Tcheou, fut en réalité sommé d’y venir ; or
le Tch’oen‑ts’ieou dissimule ce fait en disant : Le
roi par la grâce du Ciel (passa l’inspection des) fiefs à
Ho‑yang (584).
C’est en remontant à des exemples de ce genre qu’on trouve
une règle pour le temps présent (585) ;
la signification des abaissements et des suppressions (586)
(que fait le Tch’oen‑ts’ieou) sera mise au jour et
expliquée quand il y aura des souverains (dignes de ce
nom) ; si la signification du Tch’oen‑ts’ieou
prévaut, alors dans tout le monde les sujets rebelles et les
malfaiteurs seront saisis de crainte (587).
Lorsque K’ong-tse exerçait une fonction publique, les
phrases par lesquelles il s’exprimait quand il jugeait des
procès étaient à peu près semblables à celles qu’employaient
les autres hommes et ne présentaient rien qui lui fût
particulier ; mais, lorsqu’il fit le Tch’oen‑ts’ieou,
il écrivit ce qu’il fallait écrire, il supprima ce qui
était à
p.423 supprimer, (de telle sorte que)
les gens tels que Tse‑hia (588)
ne purent critiquer une seule expression. Quand ses
disciples reçurent le Tch’oen‑ts’ieou, K’ong-tse
(leur) dit :
— Dans les générations à venir, [ (589)
ceux qui me rendront justice, ce sera
à cause du Tch’oen‑ts’ieou ; et ceux qui me
condamneront, ce sera aussi à cause du Tch’oen-ts’ieou (590). ]
L’année suivante (480),
Tse-lou mourut dans le pays de Wen (591).
K’ong-tse
étant tombé malade, Tse‑kong demanda
à le voir. [ (592)
En ce moment, K’ong-tse
s’appuyant sur son bâton (593),
p.424 allait et venait devant sa
porte ; il lui dit :
— O Se, pourquoi venez‑vous si tard (594) ?
K’ong-tse chanta
alors ceci en soupirant :
Le T’ai-chan va s’écrouler ;
La maîtresse poutre va s’affaisser ;
L’homme sage va se flétrir (595)].
En même temps (qu’il
chantait cela), ses larmes coulaient. Il dit à Tse‑kong :
— Voici longtemps que le monde n’a plus de
sagesse ; personne n’a été capable de me prendre pour
maître (596).
[Les gens de l’époque des Hia déposaient le cercueil
(en haut de l’escalier de l’Est ; les gens de l’époque des
Tcheou, (en haut de l’escalier de l’Ouest ; les gens de
l’époque des Yn le plaçaient entre les deux colonnes (597).
La nuit dernière, j’ai rêvé
p.425 que j’étais assis entre les
deux colonnes, devant les offrandes qu’on fait à un mort.
C’est sans doute parce que je suis un homme (qui descend)
des Yn (598).
Sept jours plus tard, il mourut.].
K’ong-tse
était âgé de soixante‑treize ans et c’était
le jour ki-tch’eou du quatrième mois de la seizième
année (479) du duc Ngai, de Lou, quand il
mourut (599).
[ (600)
Le duc Ngai prononça son éloge
funèbre en disant (601) :
« Le Ciel miséricordieux n’a pas compassion
(de moi) ; il n’a pas pu prendre sur lui de me laisser un
seul vieillard expérimenté (602)
qui fût capable de me protéger, moi l’homme unique (603),
pendant que je règne. Plein de tristesse, je suis plongé
dans l’affliction. Hélas ! Vénérable
p.426 Ni (604) !
je n’ai plus personne qui me serve de règle.
Tse-kong dit :
— Le prince, ne mourra certainement pas dans
le pays de Lou (605) !
Le Maître en effet a dit : Pécher dans la pratique des
rites, c’est preuve d’aveuglement d’esprit ; pécher dans
l’emploi des mots, c’est preuve de tendance aux abus. Pécher
en ce qui concerne les intentions, c’est aveuglement
d’esprit ; pécher en ce qui concerne les places
appropriées, c’est tendance aux abus. (Or, ce que vient de
faire le duc Ngai, à savoir :) celui dont il n’a pas
su se servir pendant qu’il vivait, faire son éloge après sa
mort, c’est pécher dans la pratique des rites ; dire en
parlant de lui-même « moi l’homme unique (606) »,
c’est pécher dans l’emploi des mots.]
K’ong-tse
fut enterré au nord de la capitale (du pays)
de Lou, sur les bords (de la rivière) Se (607).
p.427 Ses disciples portèrent tous
les vêtements de deuil pendant trois années (608) ;
au bout de trois ans, leur deuil de cœur étant terminé,
quand ils se séparèrent les uns des autres pour s’en aller (609),
ils éclatèrent en lamentations
p.428
et chacun d’eux donna de nouveau libre cours
à son affliction. Quelques‑uns d’entre eux restèrent
encore (610).
Seul Tse‑kong habita dans une butte sur le tertre de
la tombe (611)
et y passa en tout six années (612),
après lesquelles il partit.
Parmi les disciples et les
gens (du pays) de Lou, ceux qui vinrent s’établir à
demeure aux environs de la tombe formèrent plus de cent
habitations qu’on appela pour cette raison « le hameau de
K’ong (613) ».
p.429 (Les princes de) Lou se
transmirent de génération en génération la coutume d’offrir
des sacrifices à K’ong-tse à des époques fixes de
l’année. D’autre part, les lettrés aussi s’exercèrent à
pratiquer les rites tels que le banquet de district et le
grand tir à l’arc auprès de la tombe de K’ong‑tse. La
sépulture de K’ong-tse est grande de un k’ing (614).
La salle dans laquelle demeurèrent autrefois les disciples (615)
a été transformée en un temple funéraire par les générations
suivantes qui y ont déposé les vêtements de K’ong-tse,
son chapeau de cérémonie, son luth, son char et ses écrits.
Tout cela se conserva sans interruption pendant plus de
deux cents années jusqu’à l’avènement des Han.
Lorsque l’empereur Kao passa dans le pays de Lou
(195), il offrit un sacrifice de trois grandes victimes (à
la tombe de K’ong-tse) (616).
Quand les seigneurs, les hauts dignitaires et les
conseillers arrivent (dans le pays de Lou), ils
commencent toujours par aller rendre visite (à cette tombe)
et ce n’est qu’ensuite qu’ils s’occupent du gouvernement (617).
p.430 K’ong-tse
engendra Li, dont l’appellation fut
Po‑yu.
Po‑yu
mourut à l’âge de cinquante ans, avant K’ong-tse
(618).
Po‑yu
engendra Ki, dont l’appellation fut Tse‑se (619).
(Il
p.431 vécut) soixante‑deux ans. Il
fut en danger dans (le pays de) Song (620).
Tse‑se composa le Tchong‑yong (621).
Tse‑se
engendra Po, dont l’appellation fut Tse‑chang.
(Il vécut) quarante‑sept ans.
Tse‑chang
engendra K’ieou, dont l’appellation fut Tse-kia.
(Il vécut) quarante‑cinq ans.
Tse‑kia
engendra Ki, dont l’appellation fut Tse‑king (622).
(Il vécut) quarante‑six ans.
Tse‑king
engendra Tch’oan, dont l’appellation fut Tse-kao.
(Il vécut) cinquante et un ans.
Tse‑kao
engendra Tse‑chen (623)
qui (vécut) cinquante‑sept ans et qui fut conseiller de
Wei.
p.432 Tse‑chen
engendra Fou (624)
qui (vécut) cinquante‑sept ans et qui fut po‑che au
service de Tch’en Che, le roi (625) ;
il mourut à la suite de Tch’en (Che) (626).
p.433 Le frère cadet de Fou,
Tse‑siang (627),
(vécut) cinquante-sept années ; il fut po‑che au
service de l’empereur Hiao-hoei (194‑188), puis il
fut promu au titre de gouverneur de Tch’ang‑cha (628) ;
il était grand de neuf pieds et six pouces (629).
Tse‑siang
engendra Tchong, qui (vécut) cinquante-sept ans.
Tchong
engendra Ou (630).
Ou
engendra Yen‑nien (631)
et Ngan-kouo. K’ong
p.434
Ngan‑kouo
fut po‑che au service de l’empereur actuel ; il
parvint au grade de gouverneur de Lin‑hoai (632).
Il mourut prématurément (633).
Ngan‑kouo
engendra Ang.
Ang
engendra Hoan.
Le duc grand astrologue
dit : le Livre des Vers renferme cette parole :
La haute montagne, il la contempla ;
La voie large, il y marcha (634).
Même sans pouvoir y atteindre, son cœur
cependant
p.435 tendait à y aller (635).
— Pour moi, quand je lisais les écrits de K’ong-tse,
j’ai cru voir quel homme il fut ; (puis,) lorsque je suis
allé dans (le pays) de Lou, que j’ai regardé la salle
du temple funéraire de Tchong‑ni, son char, ses
vêtements, ses ustensiles rituels, (lorsque j’ai vu) tous
les maîtres qui, aux époques prescrites, s’exerçaient aux
rites dans sa demeure (636),
je revenais pénétré de respect m’attarder là et je ne
pouvais m’éloigner. Dans le monde, ils sont légion ceux qui,
depuis les souverains jusqu’aux hommes sages, eurent de
leur vivant une gloire qui prit fin après leur mort. Mais
K’ong-tse, quoique vêtu de toile (637),
a transmis (sa renommée) pendant plus de dix générations (638) ;
ceux qui se livrent à l’étude le considèrent comme leur
chef. Depuis le Fils du Ciel, les rois et les seigneurs,
tous ceux qui dans le Royaume du Milieu dissertent sur les
six arts libéraux se décident et se règlent d’après le
Maître. C’est là ce qu’on peut appeler la parfaite
sainteté !
*
* *
NOTE
ADDITIONNELLE
p.436 La biographie de Confucius est
un des chapitres les plus importants des Mémoires
historiques. Se-ma Ts’ien lui-même a bien compris
l’influence considérable que Confucius a exercée dans le
monde et c’est pourquoi il a réservé à ce sage qui fut
investi d’une véritable royauté intellectuelle et morale un
des chapitres qui sont affectés aux maisons seigneuriales.
On a donc tort de représenter Se-ma Ts’ien comme
ayant préféré les enseignements de Lao tse à la
doctrine de Confucius ; telle avait pu être l’opinion de son
père Se‑ma T’an, mais, pour lui, il sut reconnaître
en Confucius le prince de la pensée chinoise, et l’éloge
qu’il fait de lui à la fin des pages qu’il lui a consacrées
témoigne de la profonde vénération qu’il lui avait vouée (639).
Pour écrire la biographie
de Confucius, Se-ma Ts’ien dut soumettre à un examen
critique les documents nombreux et divers dont il disposait
et les arranger suivant un plan qui lui est entièrement
personnel ; cette biographie en effet n’existait pas avant
lui ; il est le premier à l’avoir constituée ; quels que
soient les défauts de son essai de systématisation, on devra
toujours en tenir compte, car c’est à travers le texte de
Se-ma Ts’ien que nous voyons encore aujourd’hui la vie
de Confucius. Les matériaux que Se-ma Ts’ien trouvait
sous sa main étaient de deux sortes. d’une part, les
Commentaires du Tch’oen ts’ieou Xuân Thu, et plus
particulièrement le Tso tchoan Tả-truyện, lui
fournissaient, avec certaines indications se rapportant à
Confucius lui-même, le récit chronologique des événements
qui se passèrent de son temps ; d’autre part, une grande
quantité de propos attribués à Confucius étaient, soit
groupés en recueil, soit épars dans la littérature et
quelques‑uns d’entre eux étaient
p.437 susceptibles d’être replacés
dans leur cadre historique et de figurer dans une
biographie. Une étude attentive de ce chapitre nous révèle
comment Se-ma Ts’ien s’est inspiré de cette double
série de témoignages.
Pour ce qui est des
Commentaires du Tch’oen ts’ieou, Se‑ma Ts’ien
paraît en avoir extrait tous les renseignements qu’ils
étaient susceptibles de fournir. Cependant, il commet
parfois des inadvertances : c’est ainsi qu’il rapporte à
l’année 535 la mort de Mong Hi-tse parce qu’il n’a
pas remarqué que le Tso tchoan relate par
anticipation à cette date une anecdote qui doit être placée
en 518 ; l’historien est donc amené à dire faussement que
Confucius était âgé de 17 ans quand il fut désigné par
Mong Hi-tse pour être le conseiller de son fils ; en
réalité, Confucius était alors un homme de 34 ans (640).
En outre, Se-ma Ts’ien ne s’est pas servi
exclusivement du Tso tchoan ; il a également mis à
contribution les Commentaires de Kong‑yang Công-Dương
et de Kou‑leang Cốc-Lương quoiqu’ils aient moins
d’autorité ; c’est dans ces deux derniers ouvrages que,
lorsqu’il raconte l’entrevue des princes de Lou et de
Ts’i à Kia‑kou en 500 av. J.‑C., il recueille
certains détails peut‑être suspects que le Tso tchoan
avait cru devoir omettre (641).
C’est surtout dans
l’interprétation et l’agencement des propos ou logia
attribués à Confucius que l’intervention de Se-ma Ts’ien
est sensible. Ces propos peuvent être répartis en deux
groupes suivant qu’ils ont été recueillis par l’école de
Confucius ou qu’ils émanent d’ouvrages étrangers à cette
école. Le premier groupe se distingue nettement du second
par une certaine homogénéité de langage et de doctrine, et
la différence entre les deux séries de témoignages est fort
visible dans l’assemblage qu’en fait Se-ma Ts’ien.
Si nous considérons d’abord le second
groupe, nous voyons l’historien tirer du Kouo yu
Quốc-ngữ trois textes dans lesquels Confucius nous apparaît
comme donnant des explications au sujet d’êtres ou d’objet
merveilleux (642),
p.438 ce qui est en contradiction
formelle avec l’affirmation du Luen yu Luận-ngữ que
le Maître ne discourait pas sur les prodiges (643) ;
un de ces textes est d’ailleurs assigné à une date
manifestement erronée (644).
A Yen-tse Án-tử (ou Yen Yng Án Anh), mort en
493 av. J.‑C.), Se-ma Ts’ien emprunte une des
critiques les plus pénétrantes qui aient jamais été faites
de la doctrine des lettrés (645),
à telle enseigne que Mo-tse (ou Mo Ti) a eu
soin de la recueillir dans le chapitre où il combat les
lettrés. A quelque auteur taoïste aujourd’hui perdu, il
demande un récit de cette fameuse entrevue de Lao-tse
et de Confucius (646)
qui est la scène probablement fictive que l’école taoïste a
souvent choisie pour opposer triomphalement ses théories à
celles de ses rivaux (647).
Enfin dans l’ouvrage de Han Yng, qui était
contemporain de Se‑ma T’an, Se-ma Ts’ien prend
une anecdote peu vraisemblable qui représente Confucius
comme doué d’une sorte de faculté surnaturelle de divination
en matière de musique (648).
Se-ma Ts’ien aurait pu aisément multiplier ces textes
qui sentent l’hérésie, car ils abondent dans la littérature
non‑confucéenne (649) ;
c’est du moins chose remarquable qu’il ait cru devoir
accueillir dans son œuvre quelques‑uns d’entre eux. Sa bonne
foi d’historien ne lui permettait pas en effet de négliger
entièrement des traditions qui étaient fort répandues ;
mais il ne leur a fait que de discrets emprunts parce qu’il
devait sentir que la légende ou l’esprit de polémique y
jouaient
p.439 un trop grand rôle. Nous voyons
ici de près comment fonctionne sa méthode critique qui,
s’abstenant de jamais modifier un témoignage pour dégager
par une discussion raisonnée l’âme de vérité qu’il
renferme, se borne à opérer dans les livres des prélèvements
plus ou moins considérables suivant le degré de crédit
qu’elle leur accorde.
Entre les textes
non‑confucéens et les textes confucéens, il faut faire une
place à part à deux ouvrages dont certains passages se
retrouvent dans le chapitre XLVII de Se-ma Ts’ien ;
ce sont le Kia yu Gia-ngữ
(650)
et le Li ki Lễ-ký. Il serait difficile de considérer
le Kia yu actuel comme une des sources auxquelles
puisa Se-ma Ts’ien ; déjà Yen Che‑kou
(579‑645) déclarait que le Kia yu qu’il connaissait
n’avait rien de commun avec l’ouvrage malheureusement perdu
qui est catalogué sous ce nom dans le Ts’ien Han chou
Tiền-Hán-thư (chapitre XXX, p. 7 r°), et la critique
chinoise moderne s’accorde à reconnaître dans le Kia yu
actuel l’œuvre de Wang Sou, mort en 256 de notre ère.
Mais, si le Kia yu n’a reçu sa forme définitive que
trois siècles environ après la publication des Mémoires
historiques. et si par conséquent on ne peut le
regarder comme une des sources de Se-ma Ts’ien, il
serait également faux de soutenir la proposition inverse et
de dire que c’est Wang Sou qui a fait des emprunts
directs à Se-ma Ts’ien. Il semble plutôt que Wang
Sou ait recueilli un certain nombre de documents plus
anciens qui avaient déjà été utilisés par son illustre
prédécesseur ; les variantes que présentent les deux
rédactions des Mémoires historiques d’une part
et du Kia yu d’autre part prouvent qu’elles sont
indépendantes l’une de l’autre ; peut‑être leur source
commune est‑elle précisément ce Kia yu aujourd’hui
perdu qui apparaît dans le catalogue littéraire du
p.440 Ts’ien Han chou.
Une conclusion analogue s’impose lorsqu’il s’agit du Li
ki dont les recensions successives se poursuivirent
jusqu’au premier et au second siècle de notre ère ; les
points de contact entre le texte du Li ki et celui
des Mémoires historiques sont d’ailleurs peu
nombreux et n’atteignent à l’identité verbale que dans le
récit de la mort de Confucius, Ainsi donc bien que le Kia
yu et le Li ki actuels ne soient pas au nombre
des sources immédiates des Mémoires historiques,
ils reproduisent cependant quelques documents anciens qui
peuvent être tenus à juste titre pour être ceux‑là mêmes
dont s’inspira Se-ma Ts’ien.
Si les textes du Kia yu
aussi bien que ceux du Li ki ne sont pas à proprement
parler hétérodoxes, on ne saurait cependant les ranger dans
la catégorie des textes purement confucéens que nous allons
maintenant étudier. En dehors de deux courts passages qui
proviennent de Mencius (651),
tous les textes confucéens dont se sert Se-ma Ts’ien
sont tirés du Luen yu. Les paroles de Confucius qui
nous ont été conservées dans le Luen yu sont souvent
fort énigmatiques parce que nous ne savons pas exactement
dans quelles circonstances elles ont été prononcées ; or,
quand Se-ma Ts’ien les cite, il les rapporte à des
épisodes déterminés de la vie de Confucius, et, par là même,
il en fixe le sens ; aussi peut‑on dire qu’il a puissamment
contribué à établir l’explication devenue traditionnelle du
Luen yu. Cependant, la critique moderne chinoise a
dénoncé ce qu’il y avait de factice dans bon nombre des
interprétations de Se-ma Ts’ien ; elle a dégagé les
textes du Luen yu de la gangue des Mémoires
historiques, et, en les considérant dans leur pureté,
elle a été amenée à leur attribuer des sens nouveaux. Pour
ne citer qu’un des exemples les plus topiques, tandis que
Se-ma Ts’ien voyait dans la formule [] l’énoncé de la
théorie philosophique d’après laquelle les dénominations
doivent être conformes à la réalité des choses, l’exégèse
actuelle (652)
y reconnaît le
p.441 précepte que les caractères de
l’écriture doivent être corrects (653).
Dans d’autres cas, Se-ma Ts’ien ajoute aux textes du
Luen yu des indications qui, bien qu’ayant fini par
acquérir droit de cité dans la glose communément admise du
livre classique, n’en sont pas moins adventices ; ainsi, le
Luen yu nous apprend que Confucius et ses disciples
se trouvèrent en danger lorsqu’ils étaient dans la région
comprise entre Tch’en et Ts’ai ; mais
l’histoire dramatique dans laquelle Confucius encadre ce
fait est fort sujette à caution (654).
Il nous reste à dire
quelques mots de l’importance philologique du chapitre XLVII
de Se-ma Ts’ien pour l’établissement du texte du
Luen yu. De même que pour le Chou king, quoiqu’à
un moindre degré, les Mémoires historiques peuvent
fournir pour le Luen yu des leçons qui méritent
d’être prises en considération. Se-ma Ts’ien s’est
servi du Luen yu, non seulement dans la biographie
de Confucius, mais encore dans son étude sur les disciples
du Maître. A la fin de ce dernier chapitre (chap. LXVII, p.
11 r°), Se-ma Ts’ien dit :
« Le signalement des disciples est tiré du
texte ancien de K’ong ; il est suffisamment exact.
Pour moi, me servant (comme d’un principe de groupement) des
noms personnels, des noms de famille et des appellations des
disciples, j’ai recueilli dans le Luen yu toutes les
questions des disciples et je les ai ordonnées de manière à
en former un chapitre. Ce qui était douteux, je l’ai omis.
Le texte
p.442 ancien de K’ong, c’est le texte
en caractères antiques qui fut trouvé dans un mur de la
maison de Confucius (655)
et qui fut publié par K’ong Ngan‑kouo Khổng An-Quốc
(† 91 av. J.‑C.). Nous ne devons point être surpris que
Se-ma Ts’ien s’en soit servi, car nous savons par Pan
Kou Ban-Cố qu’il avait recu les enseignements de
K’ong Ngan‑kouo (656).
Faut‑il admettre que toutes les différences qu’on relève
entre le texte actuel du Luen yu et les citations que
les Mémoires historiques font de cet ouvrage
proviennent de ce que Se‑ma Ts’ien a toujours
recours au texte antique, tandis que le texte actuel est
fondé essentiellement sur la recension dite de Lou ?
C’est l’opinion qu’ont soutenue certains critiques chinois (657),
mais nous ne
p.443 saurions la partager. Se-ma
Ts’ien lui-même nous dit qu’il s’est servi du texte
antique lorsqu’il a dressé la liste des disciples en
indiquant leurs signalements, c’est‑à‑dire leurs noms de
famille, leurs noms personnels, leurs appellations et aussi
quelquefois leur âge (658) ;
ces indications en effet paraissent ne s’être trouvées que
dans le texte antique et c’est pourquoi Se-ma Ts’ien
a dû les en tirer ; il a pris ensuite cette liste comme un
principe de groupement pour disposer les documents que lui
fournissait le Luen yu relativement à chacun des
disciples ; mais, dans cette seconde partie de sa tâche, il
s’est servi, dit‑il, du Luen yu qu’il distingue ainsi
nettement du texte antique auquel il avait eu recours pour
la première partie de son travail. Ainsi, de l’aveu de
Se-ma Ts’ien lui-même, il n’a emprunté au texte antique
que des renseignements qui manquaient au Luen yu ;
mais
p.444 quand il eut à faire des
citations de passages existant dans le Luen yu, ce
n’est plus le texte antique qui les lui a procurées. En
conclusion donc, les variantes de Se-ma Ts’ien ne
sont pas nécessairement tirées du texte antique ; elles nous
indiquent plutôt quel était l’état du manuscrit du Luen
yu avant que les travaux des érudits qui se succédèrent
du premier siècle av. J.‑C. au deuxième siècle ap. J.‑C., en
eussent définitivement arrêté le texte (659) ;
ce manuscrit devait être sans doute celui de la recension de
Lou, qui a servi de base à toutes les éditions
ultérieures, quelles que soient les modifications de détail
qu’on ait pu y apporter par la collation tant de la
recension de Ts’i que du texte antique (660).
*
* *
Xem Kỳ 109
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |