|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
23
DỊCH BẢN-ĐỒ KHẢO
易
本
圖
攷
(Tiếp
theo Kỳ 179)
LƯ-SỐ HỢP-GiẢI
理
数
合
解
④
Đương
thời tam-giáo phân-môn, trái ngược nhau, ai giữ ư nấy, không
năng quy nhất. Tụ nơi người, không đạt nơi trời. Ai ở nhà
nấy, mê vong căn-bản vậy. Lăo-tử bèn là tổ truyền-đạo nên
đông-độ, Khổng-tử thành chí-thánh, có than lời khuyết truyền
độc-long, tây hoá hồ-vương nghịch chân-kinh, Hàm-quan có
hiện điềm lành, tử-khí trâu xanh ra đi phương tây, đạo
truyền Thiên-trúc. Bạch-mă đông lai, Phật hưng chấn đán. Đạo
cuả Khổng-tử có vay mượn ít nhiều nơi Lăo-Đam. Cái học cuả
Chu-Tŕnh vốn gốc ở Hi-di. Không ra làm quan, mà làm đạo-sĩ
Hoa-sơn, đều có ích cho Nho. Cớ sao từ Xương-Lê (Hàn-Dũ) trở
về sau, lại có chính-sự hủy Phật, tránh Lăo. Từ Tân-an đến
giờ, lại có chuyện lục-bài chân-nho họ Vương. Xương-lê tránh
Lăo, mà người cháu là Hàn-Tương-tử lại làm lĩnh-tụ
Hoàng-quán. Đạo thành trên trời, danh lưu dưới thế, miếu-mạo
hương thơm, đàn bà trẻ con đều biết. Do đó mà xem, phần đông
tránh điều đó vậy. Văn-công nhân-phẩm, vốn chính-đại, nhưng
đường-áo cuả Khổng-Mạnh sai một ly. Nguyên-đạo luận-học,
không bàn cách-trí, nhập-thủ đă sai, phần c̣n lại có thể
biết được. Công-nghiệp văn-chương rất khả-quan, tính-mệnh
thiên-đạo chưa khá bàn cùng vậy. Cái học cuả Chu-Lục, trước
nghịch sau hợp, học-nghiệp Dương-Minh, cuối cùng khó
ma-diệt, mà luận dị-đồng đến nay chưa ngừng, v́ môn-hộ khác
nhau vậy. Hà-đồ, Lạc-thư, một thuận, một nghịch. Hà-đồ
thuận-hành tương-sinh, nhất bản vạn-thù do thể nhập dụng.
Lạc-thư nghịch-hành tương-khắc, vạn thù nhất bản, nhiếp-dụng
quy-thể. Hà-đồ lấy thành-số 7, 8, 9, 6 làm tứ-tượng. 7 là
thiếu-dương, 8 là thiếu-âm. 7 là ba quẻ chấn, khảm, cấn, đều
là 1 dương, 2 âm. Dương ắt lẻ tṛn, chu-vi 3, 3 dùng thửa
toàn. Âm ắt chẵn vuông, chu-vi 4; 4 dùng phân nửa. Ba dùng
thửa toàn, 1 dương là vua, được số 3. 4 dùng phân nửa, 2 âm
là dân, được số 4. 3 vớĩ cộng lại thành 7. 3 nam đều 7, nên
gọi là thiếu-dương. 8 là ba quẻ tốn, ly, đoài, đều 2 dương,
1 âm. 2 dương được số 6, 1 âm được số 2. 6 + 2 = 8. Ba quẻ
nữ đều 8, nên gọi là thiếu-âm. 6 quẻ con đều thiếu, là
tương-đối với kiền-khôn nhi-lăo mà nói vậy. Kiền cha
thuần-dương, 3 x 3 = 9, nên lăo-dương dụng-cửu. Khôn mẹ
thuần-âm, 2 x 3 = 6, nên lăo-âm dụng lục. Lăo biến mà thiếu
không biến, v́ vật cùng ắt phản. Dương-cực biến âm, âm cực
ắt biến dương. Kiền dụng
cửu biến
ắt
là 8. Kiền dưới giao khôn, hư mà thành ly vậy. Khôn dụng lục
biến ắt là 7. Khôn thừa kiền-hào, thực mà thành khảm. Lấy số
mà nói, dùng 9 biến 8, kiền giao khôn mà thành ly. Dùng 6
biến 7, khôn thừa kiền mà biến khảm. Lấy lư mà nói, ắt kiền
dương thuận tiến, do thể nhập dụng, nên kiền dùng ly
hậu-thiên, ly là số 9 vậy. Khôn âm nghịch-thoái, do dụng
phân thể, nên khôn dùng khảm tiên-thiên, khảm số 6 vậy. Khảm
vốn trung-nam, khảm là nguyệt, mà nguyệt hiệu thái-âm. Ly
vốn trung-nữ, ly là nhật, mà nhật là thái-dương. Ấy là nghiă
cuả nhật-nguyệt hỗ-căn vậy. Trong dương có hàm âm,
ngoại-tượng là dương. Trong âm có hàm dương, ngoại-tượng là
âm. Hà-đồ thiên-số tích 25, điạ-số tích 30. Số thiên-điạ là
55. Trừ 5 không dùng, chỉ dùng 49. 5 là dương cuả thái-cực,
1 là thể cuả thái-cực, 49 là 7 x 7. Dương đến 7 ắt biến ra
âm, âm đến 7 ắt dương-phục. 6 ắt biến-cơ chưa đến, 8 ắt
biến-cơ đă qua, Dịch là cơ-hội cuả biến-hoá, nên điệt thi
dùng số 7 x 7; Hà-đồ là đất, đất nặng mà đục, Lạc-thư là
trời, trời nhẹ mà trong. Nặng đục nên số nhiều, nhẹ trong ắt
số ít. Tích cuả Lạc-thư là 45, thành-số cuả thiểu-thổ, nên
khinh-thanh, nên biến-dịch chú-hành không nghỉ. Tích cuả
Hà-đồ là 55, thành-sô cuả đa thổ, nên trọng-trọc mà giản-hậu
bất thiên. Thiên thể là dương, dương lấy số 5 làm chính
giữa. Thiên-khí có thăng, có giáng, thăng ắt là dương, dương
số 5: giáp-bính-mậu-canh-nhâm; giáng ắt là âm, âm số 5:
ất-đinh-kỷ-tân-quư. Điạ-số là âm, âm-số lấy 6 làm chính
giữa. Điạ có đối-đăi. Từ tư đến tị là nội, từ ngọ đến
hợi là ngoại. Thiên can là thổ nhị, điạ chi là thổ tứ, cũng
là thổ nhiều vậy. Nên trời lấy khí làm thể, mà đất lấy thổ
làm thể.Trời lấy 5 làm dụng. Nên ngũ-âm tam phân tổn-ích mà
thành thiên-tượng. Đất lấy 6 làm dụng, nên lục-luật cách bát
tương-sinh mà pháp-điạ. Người xưa vẽ giếng phân cương, gốc ở
Lạc-thư, thường lấy Lạc-thư làm điạ-bàn, mà không biết dụng
tuy tại điạ, kỳ-thực ắt pháp-thiên vậy. Nên năm trắng, tháng
trắng, ngày trắng, giờ trắng, cửu-vi chuyển-vận, cát hung
tương-thác, đại-tiểu tương-gian, nên đạt nơi nguồn cuả
Lạc-thư, ắt biết thiên-thời. Đạt nơi nguồn cuả Hà-đồ, ắt như
điạ-lợi. Đạt nơi thiên-lư, điạ-lư, tính-lư, nguồn cuả tam-lư
nhất-thể, ắt được nhân hoà. Đạt nơi khí, bất đạt nơi lư, gọi
là thiên lệch. Đạt nơi lư, không đạt nơi khí gọi là tố. Đạt
nguồn cuả lư, hiểu rơ dụng cuả khí, tận điạ-lợi là đáo
nội-thánh ngoại-vương, đại-trung chí-chính. Vi cuả lư,
tận-tính chí-mệnh; hiển cuả lư, tam-cương, ngũ thường, trải
vạn-cổ mà không đổi. Ẩn cuả khí, vận-hội thăng-giáng; hiển
cuả khí, thế-đạo biến-thiên, đương nhân thời mà chế-nghi.
⑤
Nhật-nguyệt-tinh-thần đẹp đẽ trên trời, tức đẹp đẽ nơi khí
vậy. Bách-cốc thảo-mộc, đẹp nơi đất, tức đẹp nơi thổ vậy.
Thanh-khí là trời, thổ cũng là đất, tốt không hư vậy. Con
người chỉ biết bách-cốc thảo-mộc đẹp nơi đất, mà không biết
đất cũng chỉ là một vật trong trời. Hoàng-đế hỏi Kỳ-Bá: Đất
chỉ là một vật trong trời, căn-cứ vào đâu? Kỳ-Bá đáp:
Đại-khí nâng lên vậy. Quỷ xui mới khiến trên đất có trời,
dưới đất cũng có trời. Kỳ-Bá có nói đến: Bốn bề cuả đất đều
là trời. Chưa từng nói đến: bốn bề cuả trời cũng là trời.
Bốn bề cuả trời cũng là trời, duy chỉ có Thái-thượng Lăo-tử
có nói đến một cách bất-nhất. Thanh-tĩnh-kinh nói: "Đại-đạo
vô-h́nh, sinh-dục trời đất". Đạo-đức-kinh (Chương I) cũng
nói: "Không tên là trước trời đất; có tên là mẹ muôn vật".
Bản-hành Tập-kinh nói: "Bên trên cửu-thiên gọi là di-la.
Trời ở trên trời, thượng-cực vô-cực. Chỗ ấy bèn là chỗ
sâu-kín cuả đại-đạo, uyên-áo cuả chí-lư. Thượng thiên cấm
bí, không được vơng-truyền, quư-hoá mà kính đấy, không phải
là người chớ chỉ bảo. Không ǵ là chẳng quán là di, không ǵ
là chẳng bao là la. Đại-khí nâng đất, đại-đạo sinh trời".
Kẻ sĩ tục-học, đa-số lấy có thể biết, có thể thấy
làm sự-nghiệp, vượt xa ra ngoài tri-kiến của phàm-dung, như
Trung-Dung nói: "Đức cuả quỷ-thần thiêng-liêng to lớn lắm
thay! Người ta trông mà không thấy, nghe mà không nghe được.
Nhưng ở đâu cũng có, quỷ-thần thể-sát hết mọi vật mà không
bỏ sót vật nàol" (Trung-Dung XVI). Tam-giáo thánh-chân,
sư-biểu vạn-thế, mô-phạm bách-vương, thớt đậu hinh-hương,
dài lâu mà di-tân
弥新.
Nho do chí-thiện định tĩnh, không thấy, không nghe, đạt
khung trời cuả vô-thanh, vô-xú mà thành thánh; Đạo do
thanh-tĩnh vô-vi, tịch-đạo xung-hư mà thành tiên; Thích do
giáng-phục tâm ḿnh, tịch-diệt chân không mà thành Phật.
Nhân v́ bất nhập chấp-tượng, nên không rơi vào ngoan-không.
Không-trung chẳng không là v́ diệu-hữu. Diệu ắt thần-minh
bất-trắc, hữu ắt thể-vật chẳng sót. Cổ-nhân đức tu bang
hưng, đạo cao hủy lại, khúc cao hoà quả, cử thế mạc dung,
bất hối, bất uẩn, tử-sinh lấy đó, là v́ đạo nên nỗi.
Văn-Vương ở tù nơi ngục Dữu-lư. Khổng-tử gặp nạn ở nước
Trần, nước Sái, cái học cuả Tŕnh-tử ruồng ruổi nơi
Sái-kinh, cái học cuả Chu-tử đuổi ra ḍng giống khác. Một là
tri-thức cuả mắt tục; hai là tinh-kim đăi-luyện, động-tâm
nhẫn-tính, phân sở đương-nhiên. Lại như âm-dương b́nh-loạn,
có công chẳng thưởng; kính chuà đàm-thiền, bên trong như
vô-sự, thế-vị nhạt nhẽo vậy. Sái Nguyên-Định, phụ-tá Chu-tử,
vô-tội mà bị đuổi, kiềm-chế thửa truyền-đạo, hoạ-hoạn chẳng
tránh, là thấy lư chân vậy. Như bản-triều Thế-tổ
Chương-Hoàng-Đế, Thế-tông Hiến-Hoàng-Đế đều thâm thâm lư
quật, nghiệp-khế đạo-nhân, đạo với quyền hợp vậy. Mà
chính-trị cuả thánh-nhân, khả dĩ minh-hành, đạo cuả
thánh-nhân, chưa dám hiển-truyền, một là sợ thần-dân khó
tận-thức, biến canh bất-dịch; hai là sợ lư vi đạo đại, kỳ-lộ
dễ sinh, vơng phó lưu-độc, dễ phóng ra, khó thâu về,
trí-lệnh tư mạn, để cố Thế-tông tác Ngữ-lục ngơ hầu
minh chí.
Thế-tổ bỏ giang-son như giầy cũ, có đạo vô-quyền,
như nhị-thánh không năng lấy vi cuả đạo ấy, biến-dụ
thần-dân, huống chi kẻ dưới quyền. Ô hô! Đại-đồng thế văng,
giang-hà nhật hạ, tập-nhiễm đă sâu, chẳng thể làm sao được!
Sách Đại-học được làm ra, gốc ở Nghiêu-điển, nên lấy
minh-đức nhập-thủ, thửa thứ-tự tu, tề, trị, b́nh, tức khắc
minh tuấn-đức. Lấy thân cửu-tộc, cửu-tộc đă hoà-mục;
b́nh-chương bá-tính, bá-tính chiêu-minh; hiệp-hoà vạn-bang,
lê-dân nơi biến thời ung.
Thửa định-tĩnh an-lự, bèn phát-huy văn-tứ u-ẩn cuả an-an.
Thửa cách-vật trí-tri, bèn biểu-chương cách nơi nghiă cuả
trên dưới. Cảm cách, cách trừ, cách chí, ba nghiă gồm đủ. Mà
nghiă cuả Nghiêu-điển cách-chí cư đa, thửa gốc ngọn, trước
sau thủy chung, tức thứ-tự cuả minh-đức chí vu vu biến vậy.
Nghiêu mênh Hi, mệnh Hoà, sau vu vu biến, tận nhập hợp thiên
vậy. Đại-học nói nhân-sự, mà thiên-sự vị thường nói đến, là
ai cai-quản sự nấy, không nói vượt ra ngoài chức-phận. Trời
cuả thiên-lư, học-giả chính-vụ. Trời cuả thiên-thời, c̣n nơi
hữu-tỷ vậy. Sách Trung-dung được viết ra, gốc nơi truyền-tâm
cuả Ngu-đ́nh. Ngôn tính cuả Khang-Cáo, nhân-tâm, đạo-tâm,
thiên-đạo, nhân-đạo vậy. Duy nguy, duy-vi, hiển-vi phí-ẩn
vậy. Bất thiên gọi là trung, doăn-chấp gọi là dung. Trung là
thể cuả đạo, Dung là dụng cuả đạo. Doăn chấp quyết trung túc
dùng thửa trung vậy. Duy hoàng giáng trung, nếu có
hằng-tính, thiên-mệnh gọi là tính vậy. Duy-tinh, duy nhất,
doăn chấp quyết trung. Suất tính gọi là đạo vậy. Thửa lời
chẳng nh́n, chẳng dương, vô-thanh, vô-xú, dương dương như
tại, thể-vật không sót, đều phát-huy chân-thể ấy cuả
duy-hoàng. Thửa lời tam đạt đức, ngũ đạt đạo, cửu-kinh
tam-trọng, vị dục tham-tán, bèn cực suy đại-dụng cuả
giáng-trung. Thửa ngôn đức tính, vấn học, quảng-đại tinh-vi
đẳng-sự, bèn mổ xẻ hai đầu mối cuả thiên-đạo, nhân-đạo,
thi-hành đại-quyền cuả doăn chấp quyết trung. Không làm
ẩn-thánh, đoan-nhập cửa cuả đức, không bỏ cuộc giữa đường,
bại cuả giới thùy thành, đến lúc chết không thấy biết mà
không hối, ắt lạc thiên tri mệnh. Người quân-tử vô-nhập; mà
không tự-đắc vậy. Không tránh cạm bẫy, tức trí không phải là
chân-trí. Không biết mùi-vị cuả thức ăn, ngu bèn thực ngu.
Đạo ấy sở dĩ không dễ biết, không dễ làm vậy. Ăn để dưỡng
dương, uống để dưỡng âm. Chất cuả ăn uống gốc nơi đất, có
h́nh dễ thấy, vị cuả ăn uống gốc nơi trời, vô-h́nh khó ḍm.
Mùi vị cuả ẩm-thực bên trong ẩm-thực, đạt bên ngoài chỗ ở
cuả ẩm-thực. Thực-tượng cuả không-trung giống như đạo, nên
lấy làm thí-dụ. Phép cách-vật cần có đạo vậy. Trước tiên,
cách lư cuả vô-cực cùng đại-nguyên cuả trời đất; thứ đến,
cách khí cuả đại-nguyên, tra xét đến cùng, phụ-mẫu cuả muôn
vật; thứ nữa cách-tường lương-nghi, phân do lai cuả
động-tĩnh. Lư cuả vô-cực, h́nh-tượng đều không có, thanh-xú
đều mất, là bản-thủy cuả trời đất, đại-nguyên cuả tính-mệnh,
có thể hội-ư, khó t́m tông-tích, vô-thủy vô-chung. T́nh mà
năng ứng, vô-tư vô-vi, hữu cảm tất thông. Nếu không thăng
đường nhập thất, mặc khế thần-hoá, là chưa thể khinh với
nghị. Cách khí cuả thái-cực, tuy vô h́nh-tượng, mà năng h́nh
h́nh tượng tượng. Tuy vô-thanh, vô-xú, mà năng thanh thanh
xú xú. Thửa thủy vậy, muôn vật đuổi nó mà có thủy. Thửa
chung vậy, muôn vật đưổi nó mà có chung. Khí thái-cực, dương
trong âm đục. Thanh-khí thành h́nh lớn lao mà là trời, trời
bao ngoài đất, tải tinh-tú nhật-nguyệt mà vận-hành không
ngừng. Trọc-khí thành h́nh lớn lao là đất, đất ở trong trời,
tải sơn-xuyên, động-thực, mà bề dầy, sức nặng không đổi.
Trời lấy khí sinh muôn vật, khí lấy thăng-giáng phân
âm-dương. Thăng ắt hướng ấm, giáng ắt hướng lạnh. Sơ-thăng
mà ấm-áp ắt là xuân, thăng cực mà nóng ắt là hạ, sơ-giáng mà
mát mẻ ắt là thu, giáng cực mà lạnh ắt là đông. Xuân, hạ,
thu, đông, giao cung quá độ, trong khoảng tứ-ngung làm ra
tứ-quư. Đất lấy thổ để tải muôn vật, lấy nam-bắc phân
âm-dương. Phương nam ấm nhiều, phương bắc lạnh nhiều, phương
đông nóng vừa phải, phương tây mát mẻ. Tứ-ngung giống với
tứ-quư cuả trời. Lạnh ắt thuộc thủy, nóng ắt thuộc hoả, mát
vừa phải ăt thuộc mộc, mát mẻ ắt thuộc kim mà trong khoảng
tứ-quư ắt thuộc thổ; khí âm-dương ngũ-hành sinh thành vật.
Đại loại thửa thành h́nh có năm thứ là:long cánh, long, vẩy,
mai, trần-trụi, mà loại hoá sinh là dư-khí hợp thành sau.
Biết đi là động-vật. Động-vật có linh-thần buộc nơi trời,
gốc ở bên trên, ba thứ thần, khí, chất hợp lại mà sinh Thần,
vốn nhất–trí, khí có vạn-thù, mà đại-cương có năm là: kim,
mộc, thủy, hoả, thổ. Bẩm kim-khí mà sinh là giáp-trùng.
Ngoài cứng trong mềm, tộc-loại có 360 thứ, mà rùa đứng đầu.
Bẩm mộc-khí mà sinh là mao-trùng. Ngoài mềm trong cứng,
tộc-loại có 360 thứ, mà kỳ-lân đứng đầu. Bẩm thủy-khí mà
sinh là lân-trùng. Thường ch́m dưới nước mà bơi được, thủy
tính ở dưới, tộc-loại có 360 thứ, mà rồng đứng đầu. Bẩm
hoả-khí mà sinh là vũ-trùng. Thường ở trên cao mà biết bay.
Tính hoả bốc lên cao. Tộc-loại có 360 thứ, mà phụng đứng
đầu. Bẩm trung-khí cuả thổ, kiêm gồm toàn kim, mộc, thủy,
hoả mà sinh là khoả-trùng, không dự vào vũ, mao, lân, giáp,
được đội mũ, mặc quấn áo mà ở cung-thất, lấy tứ-linh làm
gia-súc, tộc-loại có 360 thứ, mà thánh-nhân đứng đầu.
Thuần kim chủ nghiă, nên thần-quy dùng để bói mà dự-cáo cát
hung. Thuần mộc ắt nhân, nên lân không thương-sinh (sinh mà
chết trong bụng mẹ, tức đàn bà đi biển mồ-côi một ḿnh), là
điềm lành cuả thánh-nhân. Thuần-thủy chủ trí, nên thần long
biến-hoá, hai bề bất-trắc. Thuần-hoả ắt văn-minh mà có lễ,
nên phượng toàn ngũ-sắc, én bay có hàng lối, mà hôn-phối
bất-loạn. Thuần thổ ắt thống tứ-đoan kiêm vạn-thiện. Âm cuả
vũ-trùng thanh-cao gần chủy. Âm cuả mao-trùng dài thẳng gần
giốc. Âm cuả giáp-trùng thu vén gần thương. Âm cuả lân–trùng
thấp gần vũ. Mà con người ắt thông ngũ-âm, đạt lục-luật.
H́nh-thù ắt kim ngắn, mộc dài, hoả nhọn, thủy khúc-khuyủ,
thổ tṛn-trịa. Khí thuần ắt mỗi mỗi giống thửa h́nh, mà
tạp-thiên ắt vạn-hữu không giống nhau. Phàm cửu-khiếu, ắt
h́nh giao mà thai-sinh. Bát-khiếu, ắt khí-giao mà noăn-sinh.
Tộc mộc-hoả thường ở trên cạn. Tộc kim-thủy thường ở vực
sâu, phân âm-dương thăng-giáng. Tiên-hạc dưỡng thần, biết
linh cuả mộc-hoả; thần-quy điều-tức, được tinh-hoa cuả
kim-thủy. Nên một là năng thông thần, hai là năng vũ-hoá.
Thiên-khí giáp một ṿng, 365 ¼ độ cổ, lại có nhị-thập-bát tú
kinh-tinh, tuỳ thửa độ-số quản, ít nhiều bất-đồng, phàm khí
cuả mỗ tú, mỗ tú, thửa h́nh-tính giống mỗ tú. Lấy âm-dương
suy-vượng thuần-tạp, tinh-tú cát hung, mà phân sang hèn lớn
bé, trí-ngu, hiền dữ, trống mái, thọ-yểu. Tức dẫn thân đấy,
khuyếch sung đấy, động-vật tuy đông có thể cách-trí được.
⑥
Đất lấy ngũ-chất tải muôn vật, đợi thiên-khí đến mà sinh ra.
Trọc-chất thuộc tĩnh, tĩnh ắt thực-vật, rễ sinh nơi đất. Lấy
sinh-trưởng làm động, lấy không thể tự-động làm tĩnh. Núi
sinh ngũ-kim thảo-mộc, là tĩnh ở trong tĩnh. Để tượng xương
cuả đất. Thủy sinh nơi núi mà nhuận thảo-mộc, là động trong
tĩnh. Để tượng máu cuả đất. Vẻ đẹp cuả thảo-mộc thành h́nh
mà con người có thể ăn được, là ngũ-cốc (tức rễ cây, bông
luá, các loại củ, dây khoai lang, bầu-bí, mướp). Phàm rễ,
lá, hoa, quả cuả ngũ-cốc, sắc xanh vị chua, h́nh thẳng mà
dài, là do gốc ở mộc-khí cuả xuân mà sinh, con người ăn vào
ắt nhập vào can-đảm kinh mà sinh gân. Sắc vàng vị ngọt, h́nh
tṛn là gốc ở thổ-khí cuả tứ-quư mà sinh, người ăn vào ắt
nhập vào hai kinh tỳ-vị mà sinh thịt. Sắc đỏ vị cay, h́nh
nhọn, gốc ở hoả-khí cuả hạ mà sinh, con người ăn nó ắt nhập
tâm-kinh và tiểu-trường kinh mà sinh máu. Sắc trắng, vị
đắng, h́nh ngắn, gốc ở kim-khí cuả thu mà sinh, nhập
phế-kinh và đại-trường kinh mà sinh khí. Sắc đen vị mặn h́nh
cong queo, gốc ở thủy-khí cuả đông mà sinh, nhập thận-kinh,
bàng-quang-kinh mà sinh xương. Nhẹ mà vị nhạt là thuộc
dương, nhập khí-phân mà thượng-thăng. Nặng mà vị đậm-đà
thuộc âm, nhập vào máu hạ-giáng. Phàm thực-vật, lấy khí-chất
hợp mà sinh, vô thần nên vô-tri, mà rễ sinh nơi đất. Trong
trời đất vạn-vât tuy đông, không ngoài động-thực; động-thực
tuy đông không vượt khỏi ngũ-hành; ngũ-hành tuy đông, không
dời khỏi âm-dương; âm-pdương gốc nơi thái-cực, thái-cục gốc
nơi vô-cực, long-mă xuất Hà, hiện Đồ, mượn số sinh-thành cuả
trời đất mà hiện h́nh. Thái-cực gốc ở vô-tượng, thần-long
xuất-hiện nơi sông Lạc, vác một, số lưu-hành cuả một khí để
tượng đấy, lúc ấy Hi-Hoàng gặp số thiên-điạ, gốc ở tĩnh-thể
cuả Hà-đồ đối-đăi, vẽ tượng cuả tiên-thiên bát-quái.
Văn-Vương gặp số cuả một khí lưu-hành, lật ngược tĩnh-thể
cuả tiên-thiên, tác tượng cuả hậu-thiên vận-dụng. Lúc Dịch
chưa được vẽ ra, Dịch tại trời đất. Dịch được vẽ ra rồi,
trời đất tại Dịch. Hà-đồ nói: khí hiện tại thực-tượng cuả
không-trung, Linh-Luân nhân đó mà làm ra nhạc. Hà-đồ trời 1,
Lạc-thư xỏ 1. Trời 1 là tông cuả ngũ-hành, xỏ 1 là bắt đầu
của 1 dương, nên ngũ-âm, lục-luật, độ, lượng, vói hành
(cân), đều từ đó mà tạo-đoan. 1 là lẻ vậy, lẻ tṛn, chu-vi
3, 3 x 3 = 9, 9 x 9 = 81 ty, là dây cung cuả hoàng-chung, do
đó tam-phân tổn-ích. Đến số 64, tam-phân, phân đến bất-tận,
nên âm dừng ở 5, lẻ tṛn chu-vi 3, nên luật quản hoàng-chung
chứa 1200 hạt thóc, nặng 12 thù, tức một lạng nay, là tượng
cuả 12 tháng vậy. 12 thù là nửa lạng xưa, 24 thù là tượng
cuả 24 tiết-khí vậy. 16 lạng là một cân, hợp lại được 384
thù tức 64 quẻ vậy, tượng cuả 384 hào vậy. Do đó nhân bề
rộng cuả hạt luá, tức phân ra tấc mà sinh ra độ. Nhân thăng
mà sinh lượng, biết điều đó ắt luật, độ, lưọng, cân, tùy
theo mà cách-trí vậy. Hi-Hoàng vẽ quẻ để làm sáng tỏ
vật-tượng cuả trời đất. Hoàng-đế nhân đó chế ra quần áo,
mũ-măo, xây cung-thất, tạo đồ dùng, để dân dùng. Ngôi trời ở
trên, ngôi đất ở dưới, mà tôn-ti cuả lễ sinh ra. Kiền xưng
là cha, khôn xưng là mẹ, mà lễ-nghiă cuả thân-tộc sinh ra.
Tam-thiếu là nam, mà lễ-nghiă giữa anh em sinh ra. Tam-thiếu
là nữ, mà lễ-nghiă giữa chị em sinh ra. Từ thiếu đến tráng,
sinh ra lễ kết-hôn. Đồng thanh tương-ứng, đồng-khí tương
cầu, mà lễ lai-văng sinh ra. Từ lăo đến chết sinh ra Lễ
tang-tế. Dẫn thân dung-loại, mà 3300 lễ sinh ra. Gần lấy nơi
thân ḿnh, 64 quẻ sinh nơi cấn, đoài, đại-bản nơi trời. 384
hào khôn dời khỏi chẵn lẻ. Bởi chưng do thiếu-nam đến
trung-nam, do trung-nam đến trưởng-nam, do trưởng-nam đến
lăo-phụ, bốn quẻ đều là biến cuả một quẻ vậy. Từ thiếu-nữ mà
là trung-nữ, từ trung-nữ mà là trưởng-nữ, từ trưởng-nữ mà là
lăo-mẫu, bốn quẻ cũng là từ một quẻ mà biến ra vậy. Một
dương sinh ra từ quẻ Phục đông-chí, mà 192 hào dương đều từ
đó mà tạo-đoan.
Một âm sinh ra từ quẻ Cấu hạ-chí, mà 192 âm-hào đều từ đó mà
thác-thủy. Lạc-thư là lưu-hành cuả khí-thiên, muôn vật
sinh-tử cát-hung do nơi khí, nên hiển cuả nhân-sự, tất cả
đều hiển nơi khí. Vuơng-giả đặt ra phép-tắc, thượng-nhân lấy
đó mà trị-lịch minh-thời, hạ-nhân lấy đó mà vẽ giếng,
phân-cương. Cửu-trù là đại-pháp cuả bách-sinh, bát-trận là
thông-dụng cuả cửu-phạt. Vu-Mục hiển-đạo cuả vô-h́nh nơi
Hà-lạc từ tiên-thiên, hậu-thiên, mượn tượng để hiển số.
Hoàng-đế nhân Hà-lạc quái-tượng, để chế lễ tác vinh.
Phong-Hậu nhân cửu-cung mà tri cơ-nghi. Thương-Hiệt căn-cứ
vào quái-tượng mà suy-diễn Lục-thư. Lệ-thủ căn-cứ vào Hà-Lạc
mà suy toán-số. Kỳ-Bá ắt tham-bác Hà-lạc quái-tượng, tra xét
thiện-dụng cuả lư-khí để sáng-chế ra y. Quảng-Thành-tử ắt
siêu-hoá Hà-lạc và đại-nguyên lư-khí để truyền-đạo, hợp
lư-khí hiển-vi suy cho đến nhân-sự, trị độ đại-lược,
phong-khí tiệm khai. Ấy là do thế-giới cuả hoàng nhập
thế-giới cuả đế vậy. Lấy lễ nhựng nhau xuất từ Đường-Ngu,
cực thịnh cuả đạo chinh chu khởi từ Tam-đại, đạo từ từ suy
vậy. Như thế. Nhà Hạ ắt chuộng trung, gốc nơi tâm. Nhà
Thương ắt chuộng chất, chưa dời khỏi con người. Nhà Chu
chuộng văn, ắt vật-tượng tùng-sự, mà cái học thân-tâm từ từ
tối-tăm vậy. Ấy là do thế-giới cuả đế nhập thế-giới cuả
vương vậy. Đến Tề-Hoàn phổ-văn, ắt giả-tá thửa sự mà
tham-trá-lực, ấy là do thế-giới cuả vương nhập thế-giới cuả
bá vậy. Do hoàng nhập đế, gọi là nguyên. Do đế nhập vương,
gọi là hanh. Do vương nhập bá, gọi là lợi. Đến đời
Khổng-Mạnh, đạo gửi sư-nho. Tổ-thuật hiến-chương, hiệu-thiên
pháp-điạ, là chấm dứt trinh. tức bắt đầu cuả nguyên, nên
Khổng-tử là Tố-vương cuả suy Chu, Mạnh-tử là Công-thần cuả
Tố-vương.
*
* *
Xem
Kỳ 181
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|