|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
06
DỊCH
NỘI-TRÚC
易
內
築
(Tiếp theo Kỳ
73)
10/ Vận-Khí
運
氣
Lục-khí là: phong, nhiệt, thấp, hỏa, táo, hàn. Trong Chương
"Chí Chân Yếu Đại-Luận" sách "Tố Vấn" (104.
282)
Hoàng-Đế hỏi: "Lục-khí phân-trị trời đất ra làm sao?" Kỳ Bá
đáp rằng: "Quyết-âm tư-thiên bằng hóa là phong, thiếu-âm
tư-thiên bằng hóa là nhiệt, thái-âm tư-thiên bằng hóa là
thấp, thiếu-dương tư-thiên bằng hóa là hỏa, dương-minh
tư-thiên bằng hóa là táo, thái-dương tư-thiên bằng hóa là
hàn".
Vận-khí thăng-giáng do khí, khí thịnh-suy do số, số tiến lui
do người. Thánh-nhân làm ra Dịch, lập ra nhân-cực để
hiển-thị Đạo làm người. Nói về trời đất cốt để phục-vụ con
người. Con người trong trời đất làm điều thiện, làm điều ác,
làm quân-tử, làm tiểu-nhân, đều do sức ḿnh. Mà cảm-triệu
của khí-cơ, âm-dương tiến-thoái th́ số tất nương theo mà
tiêu-trưởng. Tích khí thành vận, tích vận thành tượng, gây
tai-ương, tạo cát-tường, đều trông vào sở-tích.
Sở-tích-tượng không phải là việc một sớm một chiều mà thành.
Đến khi đạt mục-đích ắt thành Thái, thành Bĩ, cơ hồ tạo-hóa
làm ra, mệnh trời thực-định. Ô hô! Trời há chịu trách-nhiệm
sao? Dịch lấy tượng thiết-giáo, không ǵ là chẳng trước-bị
nơi tượng. Mà lấy âm-dương ngũ-hành, sinh-hợp, thăng giáng
làm tiết-độ. Pháp tượng nơi trời đất để cho con người lấy đó
mà tiến đức tu-nghiệp, cái ǵ cũng có số-độ. Đó cũng chính
là đầu mối công cuộc con người hợp nhất với trời, mà
cổ-thánh-nhân kinh-vỹ trời đất, ḥa-lư đại-dụng của
âm-dương, đều đầy đủ nơi đó cả. Hậu-nho không xét, chỉ
không-đàm tính-mệnh, mà không thèm biết đến tượng, không
buồn lư đến số. Ngược lại cho việc thánh-nhân dạy bảo
âm-dương khí-vận là tiểu-đạo, là thuật-số, vứt đi không nói
đến. Họ đâu biết rằng Dịch hướng-dẫn Đạo, nên không thèm
bàn-luận quái, tượng, thoán, hào vậy. Nói khác đi, họ cho
Thập Dực của Khổng-tử cũng chẳng có một lời, một chữ nào
mật-hợp với âm-dương độ-số cả. Xem kỹ nạp-giáp, nạp-âm, sau
đó mới biết ngũ-vận lục-khí đều xuất-xứ từ bát-quái, cùng
phát minh dịch-tượng, dịch-số. Muốn biết chỗ uẩn-áo của Dịch
không thể không thám-sát H́nh 6.35 bên dưới. Đó là chủ-vận.
C̣n khách-vận phải lấy ngũ-hành của bản–niên lập thành
sơ-vận, luân-lưu mà bố-trí. Ngũ-vận-đồ gồm ba ṿng, mỗi ṿng
năm khoanh. Khoanh thứ nhất nằm chếch mé dưới bên trái. kế
đó, theo chiều kim đồng-hồ là khoanh thứ nh́, khoanh thứ ba
v,v. Kể từ ngoài vào trong, ta có:
Ṿng đầu là: 3-8 PHONG, 2-7 NHIỆT, 5-10 ÂM-VŨ, 4-9 LƯƠNG,
1-6 HÀN;
Ṿng thứ nh́ là: khí thương-thiên của sơ-vận luân-lưu vùng
các tú Nguy, Thất, Liễu, Quỷ; khí đan-thiên của nhị-vận
luân-lưu vùng các tú Nữ, Ngưu, mậu-phận; khí câm-thiên của
tam-vận luân-lưu vùng tú Tâm, tú Vỹ, kỷ-phận; khí tố-thiên
của tứ-vận luân-lưu vùng các tú Cang, Đê, Pḥng, Tất; khí
Huyền-thiên của ngũ-vận luân-lưu vùng các tú Trương, Dực,
Lâu, Vị;
Ṿng thứ ba là: đinh-nhâm mộc, mậu-quư hỏa, giáp-kỷ thổ;
ất-canh kim; bính-tân thủy. (Ở đây ta lại áp-dụng quy-tắc
NGỘ LONG TẮC HÓA: H = 2
a’
+ 3 amod 5. Vd: đinh-nhâm,
a’
= 4, H = 2 x 4 + 3 = 11
≈
1 = giáp mộc).
H́nh 6.35 Ngũ-Vận-Đồ
Lục-khí là chủ-khí của nguyệt-lệnh (Xem bên dưới). Định cục
hằng năm không đổi, gọi là chủ-khí. C̣n khách-khí nương theo
năm mà cai-quản việc tư-thiên, khởi từ chính nam mà luân-bố,
coi xem chủ-khí và khách-khí khi đương đầu, nếu tương-đắc ắt
an-ḥa, c̣n không ắt họa-hại.
Ngũ-vận lục-khí là khí âm-dương của trời đất, truyền lại từ
đời tối cổ. Ngày nay chỉ có Nội Kinh là mô-tả rành rọt.
Thánh-nhân tác Dịch, pháp-tượng nơi trời đất, gần th́ lấy
nơi thân ḿnh, xa th́ lấy nơi vật (Cận thủ chư thân, viễn
thủ chư vật), mà trời đất cùng muôn vật đều rập khuôn theo
vận-khí. Cái gọi là giàm tạo-hóa (Machina Mundi) luôn luôn
tương-quan với thân-tâm, tính-mệnh của ta. Không hỗ-tác với
dân, chỉ nói suông thôi, phỏng có giúp ích ǵ? Chỉ cần
tham-khảo Xuân Thu Phiền-Lộ của Đổng Trọng-Thư (280),
Hoài Nam Hùng Liệt (006)
của Lưu-An hay Pháp-Ngôn (281)
của Dương-Hùng hẳn thấy tư-tưởng tương-đồng.
H́nh 6.36 Lục-Khí-Đồ
H́nh này gồm ba ṿng kể từ ngoài vào trong là: ṿng 24
tiết-khí quen thuộc, ṿng 12 tháng âm-lịch và ṿng lục-khí.
Ṿng lục-khí, kể từ xế trái theo chiều kim đồng-hồ, gồm:
quyết-âm phong mộc, thiếu-âm quân hỏa, thiếu-dương tướng
hỏa, thái-âm thấp thổ, dương-minh táo kim và thái-dương hàn
thủy.
Chúng ta sẽ trở lại vấn-đề then chốt này một cách quy-mô và
kỹ-lưỡng hơn nơi
CHƯƠNG 26:
Y-DỊCH VẬN-KHÍ.
PHỤ-LUẬN
附
論
Hán Thượng Ngu-Thị 64 Quái Tương-sinh-Đồ
漢
上
虞
氏
六
十
四
卦
相
生
圖
Kiền, Khôn nhất giao nơi quẻ Cấu
l.
Các quẻ đều tổ nơi quẻ Phục
X,
là Khôn nhất giao. Phàm các quẻ 5 hào âm, 1 hào dương, đều
xuất-xứ từ quẻ Phục: cứng phản-động mà thuận-hành.
Phục X
một hào biến 5 lần sẽ thành 5 quẻ: Sư
G,
Khiêm O,
Dự P,
Tỷ H,
Bác W.
Kiểm!
Phàm các quẻ 5 hào dương, 1 hào âm, đều xuất-xứ từ quẻ Cấu:
mềm gặp cứng vậy. Cấu
l
một hào biến 5 lần sẽ thành 5 quẻ: Đồng-nhân
M,
Lư J,
Tiểu-súc I,
Đại-hữu N,
Quyết k.
Kiểm!
Độn: Kiền tái-giao mà thành Độn
a.
Lâm: Khôn tái giao mà thành Lâm
S.
Lâm: cứng lấn mà lớn lên, cương trung mà ứng.
Phàm các quẻ 4 hào âm, 2 hào dương, đều xuất-xứ từ quẻ Lâm.
Lâm phục-biến 5 lần sẽ thành 14 quẻ:
Tứ-biến lần đầu thành: Minh-di
d,
Chấn s,
Truân C,
Di [.
Kiểm!
Phục-tứ-biến lần nh́ cho: Thăng
n,
Giải h,
Khảm ],
Mông D.
Kiểm!
Phục-tam-biến lần ba cho: Tiểu-quá
~,
Tụy m,
Quan T.
Kiểm!
Phục-nhị-biến lần thứ tư cho: Kiển
g,
Tấn c.
Kiểm!
Phục-nhất-biến lần thứ năm cho Cấn
t
thượng địch hạ ứng.
Độn: tiểu lợi trinh, lấn mà lớn lên.
Phàm các quẻ 4 hào dương, 2 hào âm, đều xuất-xứ từ quẻ Độn
a.
Độn phục-biến 5 lần sẽ thành 14 quẻ:
Tứ-biến lần đầu cho: Tụng
F,
Tốn y,
Đỉnh r,
Đại-quá \.
Kiểm!
Phục tứ biến lần nh́ cho: Vô-vơng
Y,
Gia-nhân e,
Ly ^,
Cách q.
Kiểm!
Phục tam-biến lần thứ ba cho: Trung-phu
},
Đại-súc
Z,
Đại-tráng b.
Kiểm!
Phục-nhị-biến lần thứ tư cho: Khuê
f,
Nhu E.
Kiểm!
Phục-nhất-biến lần thứ năm cho: Bĩ
L.
Kiểm!
Đoài: cứng ở giữa mà mềm ở bên ngoài.
Bĩ: Kiền tam giao mà thành Bĩ
L.
Thái: Khôn tam giao mà thành Thái
K.
Thái: tiểu văng đại lai (Lời Thoán quẻ Thái).
Phàm các quẻ 3 hào dương, 3 hào âm, đều xuất-xứ từ quẻ Thái.
Thái phục-tam-biến 3 lần sẽ thành 9 quẻ:
Tam-biến lần đầu thành: Quy-muội
v,
Tiết |,
Tổn i.
Kiểm!
Phục-tam–biến lần thứ nh́ thành: Phong
w,
Kư-tế
%,,
Bí V.
Kiểm!
Phục-tam–biến lần thứ ba thành: Hằng
`,
Tỉnh p,
Cổ R.
Kiểm!
Bĩ L:
đại văng tiểu lai (Lời Thoán quẻ Bĩ).
Phàm các quẻ 3 hào dương, 3 hào âm đều xuất-xứ từ quẻ Bĩ. Bĩ
phục-tam-biến 3 lần thành 9 quẻ:
Tam-biến lần đầu thành: Tiệm
u,
Lữ x,
Hàm _.
Kiểm!
Phục-tam–biến lần thứ ba thành: Ích
j,
Phệ-hạp U,
Tùy Q.
Kiểm!
III/ DỊCH-LỆ
易例
①
Tiên-Tần Chư-Tử Dịch-Lệ
先秦諸子易例
Điển-tịch Tiên-Tần có dẫn Chu Dịch,
ngoài Quốc-ngữ, Tả-Truyện c̣n có Luận-ngữ, Thi-tử, Tử-tư-tử,
Tuân-tử, Chiến-quốc-sách và Lă-thị Xuân Thu. Trang-tử cũng
có mấy chỗ đề-cập Dịch nhưng không dẫn Dịch-văn nên không
trích lục vào đây.
Kể theo thời-tự, Ngũ-kinh là Thi,
Thư, Dịch, Tam-Lễ (Chu-Lễ, Nghi-Lễ, và Lễ-Kư), Xuân Thu
Tam-Truyện (Tả-Truyện, Công-Dương-Truyện, Cốc-Lương-Truyện).
Lễ-kư, trong các chương 30 (Phường-kư), Chương 32 (Biểu-kư),
Chương 33 (Truy-y), Chương 39 (Thâm-y) có dẫn nhiều câu của
Dịch. Xét lại thời-đại sách xuất-hiện, các thiên bất đồng,
nên chưa có định-luận (Xem bên dưới).
Luận-ngữ dẫn Dịch có một điều trong
Thiên Tử-lộ:
Đức Khổng-tử nói rằng:
"Người phương Nam có câu: Người không giữ được tâm tính theo
mực thường lâu bền, th́ không thể làm thầy cúng, thầy thuốc",
lời nói ấy phải lắm! Kinh Dịch có câu: "Chẳng giữ được đức
thường, hay tiến đến sự hổ-thẹn"
(Luận-Ngữ XIII/22). Đức Khổng-tử kể câu ấy rồi
nói tiếp: "Đó là v́ người ta không xem lời chiêm-nghiệm
trong quẻ Hằng mà thôi!"
Thi-tử dẫn Dịch có một điều:
Quần Thư Trị-Yếu dẫn Phát-mông Thiên của Thi-tử: "Kinh Dịch
nói: "Lư hổ vỹ, tố tố chung cát = Xéo lên đuôi cọp, cuối
cùng th́ tốt." Nếu quần-thần có số đông đều đề-pḥng
cẩn-thận, lo sợ như thể xéo lên đuôi cọp, ắt lo ǵ mà mà
chẳng cứu giúp được?"
Tử-tư-tử dẫn Dịch có một điều:
Văn-hiến Thông-khảo, quyển 208, dẫn
Tử-tư-tử:
"Mạnh-Kha hỏi đạo của mục-dân, điều nào nên thi-hành trước?"
Tử-tư nói: "Trước tiên nên làm lợi cho họ." Mạnh-Kha nói:
"Đấng quân-tử dạy dân cũng chỉ là nhân-nghĩa mà thôi, hà tất
nói lợi?" Tử-tư nói: "Nhân-nghiă sở dĩ có lợi cho dân. Người
trên bất-nhân, ắt không được việc; người trên bất-nghĩa, ắt
thích làm điều man-trá. Như thế bất-lợi lớn vậy. Cho nên
Dịch nói: "Lợi là ḥa-hợp của điều nghĩa." (Văn Ngôn Quẻ
Kiền). Lại nói: "Lơi dụng yên thân là để chuộng cái đức vậy.
Như thế điều lợi đều lớn vậy."
Đoạn văn trên cũng thấy dẫn trong
Quận Trai Độc Thư Chí, Quyển II, dẫn thuật Khổng-tùng-tử
Tạp-Huấn. Cho nên ngụy-văn này lấy văn của Tử-tư-tử để nhập vào văn cuả
Khổng-tùng-tử. Duy Tử-tư-tử không sống cùng
thời với Mạnh-tử. (Xin xem Tiên-Tần chư-tử Hệ-niên Khảo-biện
của Tiền-Mục, Thiên Mạnh-tử thụ-nghiệp Tử-tư,
291,
tr. 159 & tr. 173).
Luận-giả Án: Tử-tư mất năm Chu Kính-Vuơng thứ 37 (484
BC), c̣n Mạnh-tử sinh ngày mùng 2 tháng tư năm Chu
Định-Vương thứ 27 (442 BC), tức thị lúc Mạnh-tử chào đời th́
Tử-tư đă mất từ 42 năm trước rồi. Ở đây chép việc Mạnh-tử và Tử-tư-tử
đối-ngữ chứng tỏ là sách Tử-tư-tử không do tay chính Ngài
hay môn-nhân của Ngài viết ra. Mà sách ấy có trước-lục trong
Hán-thư nghệ-văn-chí. Ban-Cố cũng không nghi ngờ ǵ cả. Hẳn
đây là cựu-tịch Tiên-Tần.
Tuân-tử (283) dẫn Dịch cả thẩy ba lần:
1) Thiên Phi Tướng:
"Phàm làm người không nên ưa thích nói lời tốt cho chính
ḿnh. Mà người quân-tử lại càng phải thận trọng gấp bội. Cho
nên nói về tặng vật, quư trọng nơi vàng đá, châu ngọc; xem
xét lời nói đẹp là ở nơi phủ-phất (lễ-phục) văn-chương; nghe
lời người khác nói, vui ở chuông trống, đàn ḱm, đàn sắt.
Trái lại, phàm phu tục tử, ưa nói bụng ḿnh mà không tiếc
lời, suốt đời không khỏi thốt lời khiếm-nhă". Cho nên Dịch
nói: "Thắt miệng túi lại mà không cho ra, th́ không có lỗi
mà cũng không có tiếng khen quá đáng". (Hào-từ lục-tứ quẻ
Khôn). Điều đó người đời gọi là hủ-nho vậy.
2) Thiên Đại Lược nói: "Dịch nói: "Từ đạo-lư mà trở lại, có
lỗi ǵ đâu?" (Hào từ sơ-cửu quẻ Tiểu-súc). Hiền-Mục-Công đời
Xuân Thu có thể biến được như vậy".
3) Cùng chương này,
"Trong quẻ Hàm của Dịch thấy vợ chồng. Đạo vợ chồng không
thể không chính đáng, đó là gốc của vua tôi, cha con vậy.
Hàm là cảm. Người trên nhường nhịn kẻ dưới, đàn ông nhường
nhịn đàn-bà, mềm ở trên mà cứng ở dưới. Đạo đem lễ-vật đi
cầu người hiền, lễ hỏi vợ, cần trịnh-trọng lúc ban đầu".
Chiến Quốc Sách dẫn Dịch có hai điều:
1) Tần Sách: Hoàng Hiết v́ Sở Khoảnh Tương-Vương thuyết Tần
Chiêu-Vương rằng: "Dịch nói: "Con cáo làm ướt cái đuôi"
(Hào-từ sơ-lục quẻ Vị-tế). Lời ấy nghĩa là ban đầu dễ, cuối
cùng khó".
2) Tề Sách: Tề-Tuyên-Vương gặp Nhan-Xúc … Xúc đáp: "Cho nên
Dịch-truyện chẳng nói như thế sao? Ở địa-vị trên, chưa làm
nên công-cán ǵ đáng kể đă vội mừng với danh-phận ḿnh, th́
là hạnh-kiểm kiêu-sa, ắt chẳng lành". Điều mà Nhan-Xúc
thuật, Kinh Dịch hiện-tồn không chép. Cho nên các lời các
dịch-gia thời đó nói, truyền-bản Kinh Dịch chưa thâu. Truyện
Thúc-Tích trong Tấn-thư, thuật chuyện Cấp-Trủng khám phá
được trúc-thư, ngoài hai Thiên giống Bản Kinh ra, c̣n có hai
Thiên Dịch-Dao Âm-dương-quái, ngờ rằng như Liên-Sơn,
Quy-Tàng mà Chu-Lễ có ghi (Việc Công-tôn Đoạn và Thiệu-Trắc
luận-Dịch), không nên phụ đăng vào đằng sau Kinh Dịch. Hai
Thiên của Công-tôn-Đoạn, Bản Kinh hiện tồn không có, mà Kinh
Dịch bên dưới các quẻ lại không giống Thuyết-quái-truyện.
Thế mới biết cuối thời Chiến Quốc Sách, Kinh Dịch chưa có
định-bản. Mà các nhà bàn Dịch không thiếu ǵ. Thập-Dực đươc
lưu-truyền chưa đủ để nói hết mọi chuyện.
Lă-thị Xuân Thu (034)
dẫn Dịch có bốn điều:
1) Thiên Hữu Thủy Giám Vụ Bản (034,
tr. 200-202) chép: "Gốc an-nguy vinh nhục là ở nơi chúa, gốc
của chúa là ở nơi tôn–miếu, gốc của tôn-miếu là ở nơi dân,
gốc của dân là ở nơi quan hữu-tư. Dich nói: "Từ đạo-lư mà
trở lại, có lỗi ǵ đâu? Tốt lành" (Hào-từ sơ-cửu quẻ Lư). Đă
nói gốc chẳng khác, ắt hành-động cuối cùng có tin vui".
2) Thiên Thủ Thận Đại-Lăm (034,
tr 235-240) chép: "Vũ-Vương thắng Ân, bắt được hai tù-binh
bèn hạch hỏi: "Nước ngươi có yêu chăng?". Một tên đáp: "Nước
tôi có yêu, ban ngày thấy sao mà trời đổ mưa máu, đó là yêu
nước tôi vậy". Tên thứ hai đáp: "Đó ắt là yêu. Tuy nhiên
chưa phải là yêu lớn. Yêu nước tôi lớn lắm, con chẳng nghe
lời cha, em chẳng nghe lời anh, lệnh vua không được
tuân-hành, đó là yêu lớn vậy". Vũ-Vương dời tiệc lui vào và
vái chào nó. Đó không phải là quư trọng nó mà là quư lời
nói." Cho nên Dịch nói: "Xéo lên đuôi cọp, biết sợ hăi, sau
th́ tốt" (hào-từ cửu-tứ quẻ Lư).
3) Thiên Thận Hạnh Luận Nhất Hạnh (034,
tr 408-202) chép: "Đức Khổng-tử bói, được quẻ Bí. Ngài nói:
"Chẳng lành" Thầy Tử-Cống nói: "Phàm quẻ Bí cũng tốt vậy
thôi. Tại sao Thầy bảo là chẳng lành?" Đức Khổng-tử nói:
"Ôi! Sắc trắng mà trắng, sắc đen mà đen, c̣n Bí là trắng lờ
lờ th́ c̣n tốt nỗi ǵ?"".
4) Thiên Thị Quân Lăm Triệu Loại (034,
tr 370-374) chép: "Dịch nói: "Như thể ĺa tan bè đảng, rất
tốt". Hoán là hiền vậy. Bè đảng là đàm đông. Nguyên là lúc
bắt đầu tốt. "Như thể ĺa tan bè đảng, rất tốt" là nhiều
người hiền phụ-tá vậy".
Lễ-Kư (287)
dẫn Dịch có bẩy điều:
1) Thâm-Y (008,
tr. 1664b) chép: "Tay áo tṛn để ứng với cái com-pa
(compasses). Áo tứ-thân như ê-ke (T-square) để ứng với h́nh
vuông. Dây dọi và mắt cá chân (?) để ứng với đường thẳng.
Mặt dưới bằng như cái hộp thăng-bằng bọt nước (spirit level)
để ứng với mặt phẳng. Cho nên cái com-pa để khi đi đứng, hai
tay đánh đ̣ng đưa cho có dáng điệu
thăng bằng. Dây dọi ôm sát h́nh
vuông để chính-trị được ngay thẳng, chính-nghĩa được vuông
vức. Cho nên Dịch nói: "Quẻ Khôn, cái động của lục-nhị,
thẳng mà vuông (orthogonality) vậy".
2) Biểu-Kư (008,
tr. 1638c) chép: "Đức Khổng-tử nói: "Không lời nào không nối
tiếp nhau, không lễ nào không giáp mặt nhau, là muốn cho dân
không nhàm nhờn vậy. Cho nên Dịch nói: "Bói một lần th́ bảo,
bói hai ba lần th́ nhàm, nhàm th́ chẳng bảo"
(Lời Thoán quẻ Mông)".
3) Biểu-Kư chép (008,
tr. 1638c): "Cho nên vua dùng bầy tôi, đúng ư th́ suy nghĩ
kỹ rồi làm theo, bằng không, ắt nghĩ chín rồi mới làm theo,
làm xong rồi thoái-triều, đó là công dầy của bầy tôi vậy.
Dịch nói: "Chẳng chịu phụng-sự vương-hầu,
nêu cao giá-trị công việc của ḿnh" (hào-từ thượng-cửu quẻ
Cổ).
4) Phường-Kư (008,
tr. 1621c) chép: "Đức Khổng-tử nói rằng: "Lễ mà trước khi
nhờ đă biếu lụa tơ trần, là muốn dân phụng-sự trước rồi mới
ban lộc sau. Trước tiền, sau lễ, ắt dân lợi; không nói năng,
mà đă tỏ t́nh cảm, th́ dân tranh nhau. Cho nên người quân-tử
được người khác biếu thức ăn tất chẳng nh́n đồ biếu. Dịch
nói: "Như thể chẳng cấy gặt, chẳng ngả ngấu, ắt lợi có chỗ
mà đi" (hào-từ lục-nhị quẻ Vô-vơng).
5) Biểu-Kư (008,
tr. 1942c) chép: "Đức Khổng-tử nói: "Nhập triều mà nói lời
cao xa là trông mong lợi lớn, c̣n nhập triều mà nói lời nho
nhỏ là trông mong lợi nhỏ. Cho nên người quân-tử không dùng
lời nho nhỏ khi nhận lộc lớn, mà cũng không dùng lời cao xa
khi nhận lộc nhỏ". Dịch nói: "Chẳng ăn ở nhà, tốt lành" (Lời
Thoán quẻ Đại-súc).
6) Truy-Y (008,
tr. 1651b) chép: "Đức Khổng-tử nói rằng: "Người phương Nam
có câu: "Người không giữ được tâm tính theo mức thường lâu
bền, th́ không thể làm thầy cúng, thầy thuốc", Đó là lời nói
thời xưa chăng? Bói rùa, bói cỏ thi mà c̣n chẳng biết. th́
làm sao biết việc người được! …"
Kinh Dịch có câu: "Chẳng giữ được đức thường, hay mang đến
sự hổ-thẹn" (Hào-từ cửu-tam quẻ Hằng). Lại có câu: "Như thể
giữ được thường thường cái đức của ḿnh. chính bền, đàn-bà
th́ tốt." (Hào-từ lục-ngũ quẻ Hằng)".
7) Phường-Kư (008,
tr. 1620c) chép: " "Đức Khổng-tử nói: Cung-kính ắt dùng đồ
tế, nên người quân-tử không v́ ít ỏi mà bỏ lễ, không v́ ngon
lành mà mất lễ. Nên khi ăn đồ lễ, nếu chủ-nhân tự-thân biếu,
ắt khách xá; chủ-nhân không tự-thân biếu, ắt khách chẳng xá.
Cho nên quân-tử nếu không có lễ, ắt chẳng ăn". Dịch nói:
"Láng giềng bên Đông mổ trâu chẳng bằng láng giềng bên Tây
tế Thược, thực chịu được phúc". (Hào-từ cửu-ngũ quẻ Kư-tế)"
".
Dịch-lệ các sách bên trên dẫn Dịch cả thẩy được 39 điều, đều
lấy nghĩa-lư mà nói, chứ không dùng tượng-số mà giải-thích
Dịch. Đáng chú-ư hơn cả là thiên Đại-lược trong sách Tuân-tử
đề-cập quẻ Hàm, quy-tụ văn Thoán-truyện, lấy thượng-hạ-thể
lập thuyết. Thoán-truyện có phải là do Đức Không-tử làm ra
hay không, đến nay chưa có định-luận; nhưng xuất-hiện trước
thời Tuân-tử, nên có thể căn-cứ vào đó mà đoán-định. Các
dịch-lệ Thoán-truyện ấy cùng là lấy nghĩa-lư mà thích nghĩa
Dịch-từ, là thói quen của các dịch-gia Tiên-Tần.
Duy lệ các sách bên trên dẫn Dịch đều tŕnh bầy lời của họ
dưới dạng cách-ngôn, đối với Dịch là sự việc chuộng lời nói.
Mặt khác, Quốc-ngữ, Tả-truyện dẫn Dịch ắt nhân bói mà
đề-cập, đối với Dịch là sự việc chuộng bói. Chuộng lời là
trần-thuật văn-nghĩa, để phô bầy ư-chỉ. Chuộng bói tất
suy-diễn tượng-số, để cầu phù-hợp với sự việc đang bói.
Mục-đích hai sự việc khác nhau, nên thuyết hẳn cũng phải khác nhau.
Vậy nên, dịch-dụng gốc nơi chiêm-phệ, mà mỗi lời bói là một
loại cách-ngôn. Khi chiêm-phệ tất nên nhắm vào tượng-số mà
suy-diễn, để cầu phù-hợp với nhân-sự th́ chấp-nhận được. C̣n
linh-nghiệm hay không lại là chuyện khác. Chuộng lời là đổi
lời thành cách-ngôn, cũng c̣n được. Duy bàng-thủ tượng-số,
để ḍ t́m nguyên-do của từng lời, từng chữ, từng câu, ắt
không thể chấp-nhận được. Suy-cứu tỉ mỉ kinh-văn thượng-hạ,
biết tác-giả của quái-hào-từ, dù cố-ư hay vô-ư, ngẫu nhiên
dón lấy quái-tượng để đặt lời, không phải tất cả đều như
vậy, chỉ có một thiểu-số điều-lệ mà thôi. Sự việc này khả
nghi lắm. Cớ sao người đời sau lại lầm gom Quốc-ngữ,
Tả-truyện kéo lời bói để suy ra tượng-nghĩa, kéo tượng ra để
bàn về quái-hào-từ, đảo lộn nhân quả, lấy gốc làm ngọn, từ
từ sắp đặt cho tượng-lê sinh sôi, ngụy-thuyết chi li, chẳng
hóa ra nói sàm hay sao?
Xem Kỳ 75
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|