|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
06
DỊCH
NỘI-TRÚC
易
內
築
(Tiếp theo Kỳ
74)
Phiếm-Luận về Tứ-Thư, Ngũ-Kinh
Tứ-thư là bốn sách Đại-Học, Trung-Dung,
Luận-ngữ, và Mạnh-tử. Cả bốn sách chỉ có
Luận-ngữ là dẫn Dịch một lần duy nhất. Tuy nhiên, ta thử
xét xem ba sách c̣n lại có bàn xa tán rộng về Dịch hay
không?
Mặt khác, Kinh Thi và Kinh Thư không dẫn Dịch.
Kinh Xuân Thu dẫn Dịch rất nhiều, sẽ xin đề-cập kỹ
càng nơi
CHƯƠNG VIII:
TAM THÁNH DỊCH.
Không dẫn Dịch không có nghĩa là không dùng Dịch, như ta
thấy bên dưới:
Đại-Học, Trung-Dung
Đại-Học
và Trung-Dung đều bắt nguồn từ Đại-Dịch. Lấy tượng mà
dẫn-chứng, ta nhận thấy rằng: không thấy một câu, một chữ
của Đại-Học và Trung-Dung, mà không phù-hợp
với tượng-nghĩa, tượng-số cả. Số bắt đầu từ trời 1, quẻ khởi
nơi khảm tư. Tư, trời 1 là quẻ Phục. Phục là nhất dương
sinh, là nhỏ. Sửu, đất 2, là quẻ Lâm, Lâm là lớn. Khảm
giảng-tập giáo-sự. Chữ cổ giáo là vừa có nghĩa là học, vừa
có nghĩa là dạy học, lại c̣n có nghĩa là răn đe nữa. Quẻ
Lâm, nội-quái đoài, đoài là học. Từ khảm 1 đến đoài 10 ứng
với quẻ cấn thành chung, thành thủy, niệm chung thủy nơi
việc học nên mới gọi là Đại-Học. Chung thủy của
Đại-Học trụ nơi quẻ cấn, tức nơi hào củu-nhị quẻ Kiền.
Hào này có nghĩa là "Người quân-tử học để gom vào, hỏi để
biện-luận, khoan-dung để cư-xử, nhân-nghĩa để hành-động", đó
là cái học của đại-nhân. Cái học của đại-nhân do nơi
thận-trọng từ vi-tiểu, ngăn chận gian-tà để giữ vững tâm
thành, cải-thiện đời mà không sát-phạt, đức rộng mà
giáo-hóa, đó chính là long-đức chính trung vậy. Cho nên gọi
là Trung-Dung. Vậy nên Đại-Học và Trung-Dung
đều gốc ở Dịch và đều khởi đầu từ hào cửu-nhị quẻ Kiền. Mà
hào này vốn dĩ là hào khảm, hào ly. Khảm, ly hậu-thiên,
nam-bắc chính trung, người quân-tử cứ trung-đạo mà đi.
Đại-Học th́ đi từ ly sang khảm, c̣n Trung-Dung
th́ đi từ khảm sang ly. Ly, khảm trên dưới chính là quẻ
thủy-hỏa Kư-tế (Xem lại H́nh 6.32 Tiên-thiên
Lục-thập-tứ-quái Trực-đồ nơi bài kỳ 72). Thánh-công,
Vương-đạo đều hoàn-bị nơi đó cả.
Đại-Học
大學
Đạo của Đại-Học gốc ở trời. Thiên 1, số của khảm: do
đạo sinh ra 1, rồi 1 sinh ra 2, âm-duơng hợp-đức, nên nói:
"Nhất âm nhất dương chi vị đạo = Một hào âm và một hào dương
gọi là đạo" (Hệ-Thượng V/1). Tư 1, sửu 2, về thiên-tượng là
nhật-nguyệt, tư nhị-hợp với sửu, thiên-địa hợp-đức,
nhật-nguyệt hợp-minh. Minh chính là quẻ Ly. Ly-khôn chính là
quẻ hỏa-địa Tấn. Đại-tượng-truyện quẻ Tấn nói: "Minh xuất
địa thượng, Tấn. Quân-tử dĩ tự chiêu minh-đức = Ánh sáng mặt
trời mọc từ mặt đất mọc lên, tượng-trưng cho sự thăng tiến,
người quân-tử coi đó mà tự làm sáng đức sáng của ḿnh". "Tự
chiêu minh-đức" có nghĩa là người quân-tử đề-pḥng
nghiêm-cẩn, e sợ mà lo "thận-độc" (cẩn-thận lúc chỉ có một
ḿnh). Tượng hiện rơ nơi đông-nam của ly-khôn hậu-thiên, mà
gốc vẫn c̣n nằm tại đông-bắc. Cho nên khảm và cấn hợp thành
sơn-thủy Mông mà Đại-tượng-truyện bảo rằng: "Quân-tử dĩ quả
hạnh dục đức = Người quân-tử coi đó mà quả quyết trong việc
làm và nuôi lấy đức hay". Khảm cấn phản-phúc, Mông để
dưỡng-chính, mà thánh-công xây nền nơi đó vậy. Tự nhiên,
người quân-tử không những cải-thiện cho chính ḿnh mà c̣n
"kỷ lập lập nhân", "kỷ đạt đạt nhân", "trùng ly kế chiếu".
Đại-tượng-truyện quẻ Ly nói: "Minh lưỡng tác, Ly. Đại-nhân
dĩ kế minh chiếu vu tứ phương = mặt trời hôm nay sáng rồi
mai lại sáng, để mà sáng măi, kẻ đại-nhân coi đó, nối tiếp
sự sáng để rạng soi bốn phương". Cho nên mới nói "tại minh
minh đức". Kiền-nguyên số 1, Khôn-nguyên số 2. Kiền 1 chớ
dùng, mà dùng Khôn 2. Kiền Khôn hợp đức, ắt chí-thiện. Số 1
sinh 2, 2 sinh 3, 3 là số của cấn. Cấn là chi (dừng), dừng
nơi chí-thiện vậy. Biết dừng rồi sau mới định, biết dừng là
phản thân tu đức, dừng nơi chí-thiện, âm dương hợp đức mà
thành quẻ Kư-tế định-vị, bởi chưng sáu hào quẻ này đều
xứng-vị. Định rồi sau mới tĩnh (Kiền động, Khôn tĩnh). Tĩnh
rồi sau mới an (Thoán-từ quẻ Khôn: Tiên mê hậu đắc
chủ … An trinh cát). An rồi sau mới lự (lo tính) bởi
chưng cấn, khảm chỉ là một quẻ nếu ta cho chúng là một h́nh
trụ dẹt (flat cylinder), khảm (dù là đơn hay kép) chỉ cần
nhích lên một nấc là biến thành cấn đơn hoặc kép; khảm là
tư-lự; Truyện quẻ Cấn nói: "Năng nghiên chư hậu chi lự = Hay
t́m xét ở ư nghĩ." (Hệ-Hạ XII/2). Lự nhi hậu năng đắc bởi v́
Kiền Khôn hợp-đức, "Kiền dĩ dị tri, Khôn dĩ giản năng, di
giản thiên-hạ chi lư đắc hỹ". Vật hữu bản mạt (Kiền
Khôn đều là vật; Kiền là gốc, Khôn là ngọn), sự hữu chung
thủy (Kiền là sự việc như trong quẻ Cổ, Cấn là thành chung,
thành thủy), tri sở tiên hậu (Có bản-mạt chung thủy, ắt có
tiên hậu). Tri sở tiên, ắt "tiên thiên nhi thiên phất vi =
Làm trước trời mà trời không trái ư" (Văn-ngôn quẻ Kiền).
Tri sở hậu, ắt "hậu thiên nhi phụng thiên-thời = Làm sau
trời mà theo đúng ư trời" (Văn-ngôn quẻ Kiền). Bởi vậy,
thứ-dân mới gần đạo.
Sau đây là toàn văn Chương Kinh của sách Đại-học (Xin
tham-khảo bản Pháp-dịch của Cố Couvreur nơi phụ-lục I, La
Grande Étude, mục 'PAROLE DE
CONFUCIUS' bên dưới):
Phiên-âm:
"Đại-hoc chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân,
tại chỉ ư chí thiện. Tri chỉ nhi hậu hữu định,
định nhi hậu năng tĩnh, tĩnh nhi hậu năng an,
an nhi hậu năng lự, lự nhi hậu năng đắc. Vật
hữu bản mạt, sự hữu chung thủy, tri sở tiên hậu, tắc cận đạo
hỹ.
Cổ chi dục minh minh đức ư thiên-hạ giả, tiên trị kỳ
quốc; dục trị kỳ quốc giả, tiên tề kỳ gia;
dục tề kỳ gia giả. tiên tu kỳ thân; dục tu kỳ
thân giả, tiên chính kỳ tâm; dục chính kỳ tâm
giả, tiên thành kỳ ư; dục thành kỳ ư giả, tiên
trí kỳ tri; trí tri tại cách vật. Vật
cách nhi hậu tri chí, tri chí nhi hậu ư thành, ư thành nhi
hậu tâm chính, tâm chính nhi hậu thân tu, thân tu nhi hậu
gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hâu thiên hạ
b́nh.
Tự thiên-tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi
bản. Kỳ bản loạn nhi mạt trị giả phủ hỹ; kỳ sở hậu giả bạc,
nhi kỳ sở bạc giả hậu, vị chi hữu dă".
Phiên-dịch:
Đạo của sách Đại-Học gồm ba điểm chính:
1) Minh minh-đức: làm sáng đức
sáng trời phú cho ta;
2) Thân dân: dưỡng-giáo
dân-chúng (Tŕnh-tử thế chữ thân bằng chữ tân là không đúng,
bởi chưng thân là vừa nuôi dưỡng, vừa dạy dỗ, c̣n tân chỉ là
dạy dỗ mà thôi);
3) Chỉ ư chí-thiện: chỉ dừng
lại khi đạt được cảnh-giới chí-thiện.
Biết được mục-tiêu rồi, phải quyết-định; định-trí rồi, trí
cần tĩnh; trí tĩnh rồi, thân tâm phải thảnh thơi; thân tâm
thảnh thơi rồi, mới duyệt xét sự vật để tiến tới cảnh-giới
chí-thiện.
Bất cứ vật gi cũng phân-biệt đâu là chính-yếu, đâu là
thứ-yếu. Bất kỳ việc ǵ cũng phân thành đầu, thành cuối.
Người đă biết cái ǵ phải làm trước, cái ǵ nên làm sau, là
đă gần đạo-lư Đại-học lắm rồi.
Vương-hầu xưa muốn cho muốn cho mọi người đều làm
chương-minh đức sáng của ḿnh, trước tiên phải cai-trị giỏi
nước ḿnh. Muốn cai-trị giỏi nước ḿnh, trước nhất phải
khu-xử thuận thảo gia-đ́nh ḿnh. Muốn khu-xử thuận thảo
gia-đ́nh ḿnh, trước hết phải tu thân. Muốn tu-thân, trước
nhất phải làm cho tâm ḿnh b́nh-chính. Muốn làm cho tâm ḿnh
b́nh-chính, trước hết phải làm cho ư-tưởng ḿnh đoan-chính.
Muốn làm cho ư-tưởng ḿnh đoan-chính, trước tiên phải
khai-triển triệt để trí-tuệ ḿnh. Con người khai-triển triệt
để trí-tuệ ḿnh bằng cách xét vật, cùng-lư. Xét vật cùng-lư
rồi sau mới biết đến nơi đến chốn. Biết đến nơi đến chốn,
rồi sau tâm-ư mới chân thành. Tâm ư chân thành, rồi sau tính
t́nh mới đoan-chính. Tính t́nh đoán chính rồi, bản thân mới
tu-trị. Bản thân tu-trị rồi, gia-đ́nh mới chỉnh chu.
Gia-đ́nh chỉnh chu rồi, quốc-gia mới thuận-trị. Quốc-gia
thuận-trị rồi, thiên-hạ mới b́nh-trị.
Từ thiên-tử cho chí thứ-dân, tất cả đều phải lấy việc tu
thân làm cỗi rễ. Như quả bản thân mà chưa tu-trị nổi, mà đă
muốn quốc-gia, thiên-hạ b́nh-trị là sai vậy rồi. Ân-trạch
phải nặng mà lại coi nhẹ, ân-trạch phải nhẹ mà lại xem nặng,
là chuyện phi-lư, chưa từng xẩy ra bao giờ.
Mặt khác, Ly là quẻ phương Nam. Nơi tiên-thiên là ngôi quẻ
kiền. Kiền hợp ly thành thiên-hỏa Đồng-nhân, nghĩa là
thân. Kiền là vua, khôn là dân. Kiền ban, khôn nhận. Ly
là thể kiền cưu mang khôn âm, rất ư là thân-thiết.
Nên mới nói: "tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện".
Thiện là Kiền-nguyên (Nguyên giả thiện chi trưởng dă
= Nguyên là trùm mọi điều thiện, Văn-ngôn quẻ Kiền), chí
là Khôn-nguyên (Chí tai Khôn-nguyên = Lớn vậy thay đạo Khôn,
Thoán-từ quẻ Khôn). Kiền-nguyên số 1, Khôn-nguyên số 2. Kiền
1 chớ dùng, nên dùng Khôn 2. Kiền-Khôn hợp-đức, ắt chí-thiện
vậy. Số 1 sinh 2, 2 sinh 3, 3 là số của cấn. Cấn là dừng
lại, ngừng lại nơi chí-thiện vậy. Biết ngừng rồi sau mới
định, biết ngừng là phản-thân tu-đức, ngừng nơi chí-thiện,
ắt âm-dương hợp-đức mà Kư-tế định (Kư-tế định của
Tạp-quái-truyện có nghĩa là cả 6 hào đều đúng ngôi). Định
rồi sau mới tĩnh (Kiền động, Khôn tĩnh, ngừng nơi chí-thiện.
Lấy Kiền hợp Khôn, là nhờ do động mà phản thành tĩnh vậy).
Tĩnh mà sau mới an (Đức an trinh của Khôn). An mà sau mới lo
toan (lự). Lo toan rồi sau mới đuợc. Vật có gốc ngọn, việc
có đầu đuôi. Biết chuyện nào phải làm trước (trước là thể,
minh-đức là thể), biết chuyện nào nên làm sau (sau là dụng,
minh minh đức là dụng), lúc ấy thứ-dân mới gần đạo được.
Trong mệnh-đề "Cổ chi dục minh minh đức ư thiên-hạ giả",
"minh minh đức" là do "Minh lưỡng tác, Ly. Đại-nhân dĩ kế
minh chiếu ư tứ phương". Đó chính là nhờ do Ly mà trở về
Khảm. Biết việc ǵ phải làm trước, tất trước tiên phải lo
toan việc nước. Do Ly (hỏa) ở chính-nam sang Tốn (phong) ở
đông-bắc hợp thành quẻ hỏa-phong Đỉnh, Đỉnh thông Truân,
Truân kiến hầu, Đỉnh ngưng mệnh, chính là sửa sang việc nước
vậy. Từ Tốn ở đông-nam xoay sang chấn ở chính-đông, tốn là
tề, chấn (lôi) tốn (phong) hợp thành lôi-phong Hằng
là quẻ chủ-tŕ đạo vợ chồng.Trên theo tốn (phong), ly (hỏa)
hợp thành quẻ phong-hỏa Gia-nhân. Đó chính là tề-gia
vậy. Chấn
lật ngược thành cấn (phản thân tu đức), chính là tu-thân
vậy. Tu-thân là gốc, từ ly đến cấn, từ thiên-hạ, quốc-gia mà
trở về bản thân, tức thị đức từ dụng mà quay về
H́nh 6.37 Đại-Học Dịch-Đồ
thể vậy. Lại từ cấn ở đông-bắc chuyển sang khảm ở chính-bắc
(khảm là duy tâm hanh = chỉ trong ḷng là hanh thông), chính
nơi thiên 1, đó là chính-tâm vậy.Do khảm ở chính-bắc mà trở
về kiền ở tây-bắc, ư xuất tự ḷng. Kiền là lời nói (ngôn
言),
cấn là thành成,
hai chữ ghép lại thành chữ thành
誠
là tâm thành. Cho nên nói: "Thành kỳ ư giả dă". Tri-giả
triệt thủy, triệt chung, nghe một biết mười. Đó chính là kẻ
sĩ như Nhan-Hồi mà Đức Khổng-tử đă từng chiết-tự (chữ sĩ
士
gồm chữ thập
十là
10 trên chữ nhất
一là
1). Do Kiền là 1 chuyển sang Đoài là 10, Kiền tri thái thủy,
trí chí chí chi, từ khảm 1 đến đoài 10 là "trí kỳ tri giả
dă". Do đoài mà xoay sang khôn, khôn là vật, đối-diện với
cấn. Cấn là tay "cách chi", nên mới nói rằng: "Trí chi tại
cách vật". Từ cấn mà đến khôn là kết-thúc. Đó là đức của
thể, đều là biết việc ǵ phải làm trườc cả.
Đă biết cái ǵ phải làm trước, ắt biết cái ǵ nên làm sau,
cách vật rồi sau mới tri chí, tri chí rồi sau mới ư thành, ư
thành rồi sau mới tâm chính, tâm chính rồi sau mới tu thân,
tu thân rồi sau mới gia tề, gia tề rồi sau mới quốc trị,
quốc trị rồi sau mới thiên-hạ b́nh. Đó là do gốc mà lần lên
tới ngọn, do thể mà đạt dụng. Nơi bát-quái, từ khôn sang
đoài, từ đoài sang kiền, từ kiền sang khảm, từ khảm sang
cấn. Cấn là tu thân, tu thân là khởi điểm của gia tề, thành
chung thành thủy. Rồi chấn, rồi tốn, rồi ly, rồi lại trở về
khôn. Đó là đại-dụng của toàn-thể, không ǵ là không minh.
Cho nên đạo-lư của Đại-học bắt đầu nơi "minh minh đức".
Minh lưỡng tác là ly. Rút cuộc thiên-hạ b́nh chẳng qua chỉ
là b́nh khảm. Khảm ly chính trung, do thể đạt dụng, ắt
thủy-hỏa Kư-tế công thành, cương nhu chính mà ngôi đáng:
biết ngừng rồi sau mới định. Dịch-đạo đă hoàn-bị. Từ
thiên-tử cho chí thứ-dân, tất cả đều phải lấy việc tu thân
làm gốc rễ, nghĩa là nhân-lọai đă phân chia giai-cấp. Chỉ có
đạo mới làm b́nh-đẳng được. Danh loại, lớn nhỏ đă bất nhất,
chỉ có đạo mới đồng nhất được. B́nh-đẳng, đồng nhất nên mới
nói: "nhất thị giai dĩ tu thân vi bản". Cấn là thân, cấn
cũng là ngừng, ngừng nơi trước sau, cái ǵ cũng đồng-quy nơi
cảnh-giới chí-thiện.
Trung-Dung
中庸
Xin tham-khảo bản Pháp-dịch của Cố Sérephin Couvreur, nơi
Phụ-Luc II, L’Invariable Milieu.
Chữ trung trong Trung-Dung chính là chữ trung trong khảm-ly
trung-chính. Chữ dung, phần trên là chữ canh, thích nghĩa
âm-dương bắt đầu từ ất, canh. Chấn hậu-thiên xuất-phát từ
phương đông, làm đầu mối cho mọi thứ vật (thủ xuất thứ vật),
canh tân muôn tượng, cho nên khi nạp giáp, chấn mới nạp
canh. Mà canh ngôi gốc lại ở phương tây, thuộc đoài chính
thu, chấn nhân, đoài nghĩa, thiết-lập nhân-đạo. Nên nghĩa
chữ dung, kết-hợp hai tượng chấn-đoài, kiêm-dụng nhân-nghĩa.
Tŕnh-tử nói: "Không đổi gọi là dung". Chu-tử nói: "Dung nơi
đạo thường vậy". Văn-ngôn, hào cửu-nhị quẻ Kiền nói: "Dung
ngôn chi tín, dung hạnh chi cẩn = Trong lời nói thường, giữ
được điều tín, trong nết thường làm, giữ được điều
cẩn-thận". Đoài là lời nói, chấn là nết làm, thủ-tượng cực
kỳ minh-hiển.
Mệnh trời gọi là tính (Thiên-mệnh chi vị tính). Duy mệnh
trời, ḥa-mục mà thôi. Trời là Kiền. Mệnh trời ắt là
Kiền-nguyên, muôn vật nhờ đó mà sinh ra (Kiền-nguyên tư
thủy). Mà khảm lại là đầu mối, tức thị một hào dương chính
giữa khảm là tính vậy. Đức Khổng-phu-tử khi tán Dịch nói:
"Lợi trinh là tính-t́nh vậy". Lại nói: "Nhất âm nhất dương
chi vị đạo. Kế chi giả thiên dă. Thành chi giả tính dă. =
Một âm một dương gọi là đạo. Nối tiếp đạo là điều lành, làm
nên đạo là tính" (Hệ-Thượng V/1, 2). Lại nói: "Thành tính
tồn tồn, đạo-nghĩa chi môn. = Cái tính đă thành rồi, cứ c̣n
măi c̣n măi, là cửa ngơ của đạo-nghĩa" (Hệ-Thượng VII/2).
Lại nói: "Cùng lư tận tính dĩ chí ư mệnh. = Xét lư đến cùng,
bàn hết tính mà đạt tới mệnh" (Thuyết-quái-truyện I/3). Lời
giản, ư sâu, nguyên-ủy phân-minh, trực-tiệt xác đáng.
Hậu-nho bàn về tính-lư hàng vạn lời, um tùm bát nhă mà có ai
hiểu ǵ đâu.
Tuân theo tính gọi là đạo, tức thị cái tính đă thành rồi, cứ
c̣n măi, c̣n măi. Tuân theo tính gọi là đạo, chứ không phải
tính gọi là đạo. Đạo gốc nơi trời, tính do trời phú-dữ. Con
người không được đánh mất tính trời phú-bẩm, tức là có thể
hợp với thiên-đạo. Ở Dịch-tượng, Khảm là tính, tính ẩn-phục
trong tâm nên khó thấy. Khảm là đức-hạnh thông thường,
nghiên-tập giáo-sự, dạy người khác xét dân t́nh, cho nên mới
thành tính. Vậy nên mới nói tu đạo là dạy dỗ.
Tính khó thấy. Cảm ứng nơi vật mà động là t́nh. T́nh lại
cũng khó thấy, mà thấy nơi sắc. Tỷ như thất-t́nh hỉ nộ ai cụ
ái ố dục, thấy nơi sắc, thấy nơi lời nói, thấy nơi
hành-động. Tính t́nh trinh cố nơi thiên nhất. Động ắt thấy
nơi t́nh, nơi sắc, nơi nết. Nhưng lúc mừng giận vui buồn ắt
bất nhất. Lúc đó từ cấn chuyển sang chấn mà lại lấy tốn để
tề-chỉnh cho bất nhất trở thành chuyên nhất mà hợp với đạo.
Cho nên không thể dời đạo dù là trong một khoảnh khắc. Tượng
đó từ khảm sang thấu tới ly. Ly là mắt thấy, khảm là tai
nghe.
Giới-thận chỗ mắt không thấy, sợ sệt nơi tai chẳng nghe,
không ǵ là chẳng thấy được nơi khuất-tất, không ǵ là chẳng
rơ rệt chốn vi-ti, đều là khảm tâm, tâm khảm, giấu kín mà
lại rơ rệt. Khảm tâm ở giữa trời đất, nên mừng giận vui buồn
lúc chưa phát ra gọi là trung. Khảm phát ra từ một lên đến
mười. Khảm-đoài là thủy-trạch Tiết nên nói rằng phát
ra mà trúng-tiết.
Ở tiên-thiên, Kiền-Khôn là trung, ở hậu-thịên Chấn Đoài là
ḥa, nên mới nói: "Trung ḥa triệt để nên trời đất định ngôi
ư? Muôn vật hóa dục ư?" Dịch nói: "Dịch dữ thiên địa chuẩn,
cố năng di–luân thiên-địa chi đạo = Dịch lấy trời đất làm
chuẩn nên mới năng sửa sang được đạo của trời đất"
(Hệ-Thượng IV/1). Chấn đông, đoài tây. Lấy
H́nh 6.38 Trung-Dung Dịch-Đồ
chấn ở măo, đoài ở dậu làm chuẩn, là nơi mặt trời, mặt trăng
mọc lặn, thiên-tượng nửa úp nửa mở. Khảm chính-bắc, Kiền
tây-bắc, Cấn đông-bắc không thấy được. Khí của trởi khởi nơi
hợi, tư vi-tế nên không cảm nhận được.
Khảm là số 1, Phục là nhỏ, nên đức nhỏ th́ như sông ng̣i
chẩy khắp (Trung Dung, Chương XXX). Sửu là số 2, Lâm là lớn,
nên đức lớn th́ nồng-hậu, làm cho muôn vật sinh sinh hóa hóa
tự nhiên (Trung Dung, Chương XXX). Số 1, số 2 là tâm của
trời đất,
là đại-bản của thiên-hạ. Trời 1 không dùng, dùng sửu 2, là
cấn thành-ngôn. Chữ thành
成
và chữ ngôn
言
hợp lại thành chữ thành
誠
là chân thành.
Tiền khảm hậu chấn là lôi-động Truân kinh-luân nên chỉ là
chí-thành của thiên-hạ ngơ hầu kinh-luân đại-kinh của
thiên-hạ, thiết-lập đại-bản của thiên-ha. Trời số 1 không
dùng, dùng từ số 2 đến số 10, cho nên phàm cửu-kinh (tu thân
= sửa ḿnh, tôn hiền = khuyến-khích người hiền, thân thân =
thân-thiện với người thân, kính đại-thần = tôn-kính các vị
đại-thần, thể quần-thần = thể-tất công-lao các quan, tử
thứ-dân = thương mến nhân-dân như con, lai bách-công = giúp
đỡ các nhà công-nghệ, nhu viễn-nhân = đối đăi nhu-ḥa với
các khách phương xa, hoài chư-hầu = tưởng nhớ các nước
chư-hầu) của thiên-hạ quốc-gia đều điều-hành nơi số 1 cả
(Trung Dung, Chương XX).
Khảm chính-bắc, Kiền tây-bắc, cấn đông-bắc. Kiền là
thiên-đạo, trực-đối với tốn là thẳng. Lại là duỗi ra,
xuất-phát từ tư. Khảm 1, đoài 10, động mà thẳng, thẳng mà
trúng-tiết, chỉ có thánh-nhân mới làm được. Số 2 là co lại,
nên nói: thứ đến trí-khúc. Gốc cấn phương đông là nhân-đạo,
cấn thành-ngôn, khuất khúc hữu thành. Cấn dần, Thái hanh
thông, chấn xuất-phát dụng-sự, muôn vật nứt vỏ, thành là có
h́nh, tốn là vật khiết-tề. Có h́nh ắt rơ rệt, ly lả
tương-kiến, rơ rệt ắt sáng sủa, đều khảm thấu ly phát-động.
Minh-động biến hóa, do ly-khôn mà đoài-kiền, nên nói duy
thiên-hạ năng hóa.
Thành là cấn, không thành v́ không có vật, cho nên người
quân-tử lấy thành làm quư, đồng nghịă với "Tất cả đều phải
lấy việc tu thân làm cỗi gốc" của Đại-Học. Trước sau
nhất-quán, bởi chưng cấn dần là nhân-vị, Thầy Tăng-tử có
nói: "Người quân-tử không nghĩ ngợi ra ngoài địa-vị của
ḿnh"
(Đại-tượng-từ quẻ Cấn)
và "Mỗi ngày ta xét ḿnh ba việc: v́ người mưu-tính ta
chẳng hết ḷng chăng? Cùng bạn bè giao-du mà ta chẳng tin
thật chăng? Thầy dạy mà ta chẳng học tập chăng?"
(Luận-Ngữ, I/4).
Ta có thể
đoan chắc rằng chỉ một Thầy Tăng-tử được truyền pháp "Nhất
Quán" của Đức Khổng-phu-tử. Đại-Học và Trung Dung
đều xoay quanh việc sửa ḿnh, tức quanh ngôi cấn dần.
Hào-thần cửu nhị quẻ Kiền kép tại dần, nên nghĩa của hai
sách Đại-Học và Trung Dung đều xuất-phát từ
hào cửu-nhị quẻ Kiền. Song le, khi tán Dịch Phu-tử cũng nói
đến hai hào tam-tứ của tam-cực thiên-địa-nhân. V́ sao vậy?
Bởi v́ hai hào nằm ở vùng biên-giới giữa nội-quái và
ngoại-quái, tức thị là chính giữa của toàn quẻ. Nói khác đi,
vừa là cuối của nội-quái, vừa là đầu của ngoại-quái. Điều
này rất quan trọng khi lật qua lật lại các quẻ. Cho nên Dich
mới nói nhân-đạo thường trụ tại hai hào này. Cho nên mới lấy
cấn dần để minh-hiển đạo sửa ḿnh. Đó chính là cái ta gọi là
đồng-điều nhất-quán: thành là chung-thủy của vật, c̣n cấn là
quẻ thành chung thành thủy vậy. Thành là cấn mà chí-thành là
kiền. Đạo chí thành là phản thân tu đức. Do cấn mà phản
thành khảm (flat cylinder), do 3 mà trở về 1, tức là cái ta
gọi là gồm 3 vào 1. Gồm 3 vào 1 là tượng của Thái-cực.
Thái-cực lấy vô ngậm hữu, từ khảm đến kiền, tức do hữu nhập
vô. "Đạo Dịch không nghĩ ngợi ǵ cả, không làm ǵ cả, yên
lặng chẳng động, cảm mà biết ngay được nguyên cớ của
thiên-hạ, nếu không phải là chí-thần trong thiên-hạ th́ đâu
có làm được như vậy?" (Hệ-Thượng X/4). Vậy nên đạo chí thành
có thể biết trước được.
Kiền tây-bắc là thiên-đạo, cấn đông-bắc là nhân-đạo.
Thiên-địa-nhân, tư sửu dần, tam kiến dụng trung, kiến trung
lập cực. Cấn sửu là thân, cấn dần là đám đông, là tam-thứ,
nên nói: "Đạo người quân-tử phải lấy việc sửa ḿnh làm
căn-bản. Phải trưng cầu ư dân". (Trung Dung, Chương XXIX).
Tư thiên-kiến, sửu địa-kiến, dần nhân-kiến, là "Tam-Vương"
(Ba Minh-vương thời Tam-đại tức Hạ Vơ, Thương Thành-Thang
và Chu-Văn-Vương), "Tam-Thống" (Thiên-Thống, Địa-Thống,
Nhân-Thống), nên nói: "Phải khảo-sát chính-sự Đời Tam-Vương
để tránh những sai-lầm" (Trung Dung, Chương XXIX). Biết trời
nơi quẻ Kiền, nên nói: "Đối-chất với quỷ-thần mà không
nghi-ngờ" (Trung Dung, Chương XXIX). Biết người nơi quẻ cấn,
nên nói: "Trăm năm về sau, đợi bậc Thánh-nhân khác ra đời,
lời nói của ḿnh không bị nghi-hoặc" (Trung Dung, Chương
XXIX). Theo đó trời đất ở tư, sửu mà gốc lại ở tuất, hợi,
người quân-tử lấy số một chữ thành mà chung-thủy, tức lấy
cấn mà chung-thủy vậy. Thành ắt có h́nh, có h́nh ắt rơ-rệt,
rơ-rệt ắt sáng-sủa, sáng-sủa ắt động, động ắt biến, biến ắt
hóa. Kiền tây-bắc dung-ngôn, dung-hạnh mà kết-thúc, Kiền
tuất ở xa, Khôn thân ở gần, biết cái xa ở gần vậy. Tốn
đông-nam th́n, phong-hóa từ Kiền hợi tới, biết phong-hóa từ
đâu tới. Kiền hợi tế-vi, Cấn dần rơ-rệt, biết tế-vi của
rơ-rệt. Người quân-tử nhập-đức thâm-tàng dưới quẻ Kiền nơi
cung hợi, cái người khác không thấy th́ giấu ngầm. Kiền là
góc tây-bắc nhà ở, xem ở nhà ngươi, Kiền là búa ŕu, người
quân-tử không cần dùng búa ŕu mà nhân-dân sợ oai. Kiền
tây-bắc là đạo chí-thần của trời, sửu dùng trung, gốc ngọn
đều tại đó. Kiền là thiên-thần-đạo, Chấn không tiếng, không
mùi, nên Đức Khổng-phu-tủ mới nói: "Phải dùng đến thanh và
sắc để giáo-hóa dân, th́ đó là mạt-kế vậy" (Trung Dung,
Chương XXXIII). Kinh Thi nói: "Đức nhẹ như lông, lông c̣n
thấy lớn nhỏ", chỉ có đức của trời là không tiếng, không mùi
vậy. Ấy mới thật cao-siêu mầu-nhiệm vậy!
Mạnh-tử
孟子
Bẩy thiên Mạnh-tử dẫn Thi 26 lần, luận Thi 4 lần, dẫn Thư 17
lần, luận Thư một lần, luận Lễ và Xuân Thu rất nhiều lần.
Nhưng tuyệt nhiên không bàn đến Dịch. Hậu-nhân ngờ là
Mạnh-tử không giỏi Dịch. Trong Ngữ-lục, Lư-Dung-Thôn dám
nói: "Mạnh-tử chắc là chưa từng thấy Kinh Dịch, binh sinh
tinh-thông Thi, Thư, Xuân Thu, Lễ-Kinh, nhưng không thuộc".
Ô hô! Dung-Thôn tự cho ḿnh là đại-nho, mà thốt ra lời đó.
không những là không hiểu Mạnh-tử mà c̣n không hiểu Dịch
nữa. Trong Mạnh-tử Đề-từ, Triệu Bân-Khanh khảng-khái nói:
"Mạnh-tử thông Ngũ-kinh lại sở-trường về Thi, Thư. Tuy thời
Mạnh-tử chưa có danh-xưng Ngũ-Kinh, nên lời của Bân-Khanh
chưa thể dựa vào để thực-lục". Tuy nhiên, trong sách của
Mạnh-tử, vi-ngôn đại-nghĩa rẫy đầy, sao dám bảo là chưa biết
Dịch?
Thiệu-tử nói: "Biết Dịch bất tất dẫn-dụng giảng-giải mới là
biết Dịch. Mạnh-tử viết sách chưa hề bàn đến Dịch nhưng
trong sách Mạnh-tử đă bàng bạc Dịch-đạo rồi. Nhưng ít ai
nhận chân được điều đó. Người biết dùng Dịch là đă biết Dịch
rồi. Như Mạnh-tử có thể gọi là thiện-dụng Dịch". Dùng Dịch
ngay tại bản thân chứ không phải trong lời nói.
H́nh 6.39 Mạnh-tử kiến Lương-Huệ-Vương
Dịch nói: "Nguyên là trùm mọi điều thiện, lợi là ḥa-hợp mọi
điều nghĩa" (Kiền Văn-ngôn). Trong H́nh 6.39, phía đông chấn
là Mạnh-tử, phía tây đoài là Lương-Huệ-Vương. Kiền lấy đức
nhân của chấn để hành-động. Đoài tây không đả-động ǵ đến
lợi. Lớn vậy thay! Khi Mạnh-tử đến gặp Lương-Huệ-Vương,
Vương hỏi: "Ngài có đem lợi ǵ đến cho nước của quả-nhân
không?" Mạnh-tử đáp: "Hà tất nói đến lợi. Chỉ có nhân-nghĩa
mà thôi!" Nhân-nghĩa là hai quẻ chấn và đoài vậy.
Trong H́nh 6.40, trời đất lập-cực phương bắc và phương nam.
C̣n đông và tây dùng để duy-tŕ thái-b́nh. Nhà vua ở tại
phương bắc, ngoảnh mặt về nam để nghe thiên-hạ. Ly chế lễ,
khảm tác nhạc. Nhà vua để lại di-tích nơi Kinh Thi trong hai
thiên Chu Nam và Chiêu Nam của Quốc Phong, chu hành
thiên-hạ. Nhị Nam an-nghỉ th́ vương-tích tắt, mà Kinh Thi
mất theo. Chính là nam, bắc lập cực th́ Kinh Thi và
vương-tích tiêu-vong. Mà đông. tây duy-tŕ thái-b́nh th́
Kinh Xuân Thu chép Vương-sự không thể nào không làm. Kinh
Thi tiêu vong th́ Kinh Xuân Thu tác, đó là công của Đức
Khổng-phu-tử. Bẩy thiên sách Mạnh-tử nối gót Kinh Xuân Thu,
đều là chuyện trị-lọan
H́nh 6.40 Kinh Thi và Kinh Xuân Thu
phản-phục, muốn loạn trở thành trị, biên chép đoài ở dậu đi
qua măo, bẩy bẩy đảo lộn để cho loạn trở thành trị. Đó là
lư-do tại sao sách Mạnh-tử được viết ra.
H́nh 6.41 Đông-di, Tây-di
H́nh 6.41 miêu-tả chấn-đoài đông-tây trước sau sinh
đế-vương: Đế Thuấn, là người Đông-di sinh ra trước;
Văn-Vương là người Tây-di sinh ra sau. Hai đất cách xa nhau,
đời nối tiếp nhau, mà đông tây đắc-chí nhập Trung-Quốc. Hóa
ra là đông-tây hạp-hợp-tiết như phù-tiết. Hợp đông-hành
thiên-hạ, không ǵ là chẳng thông. Đắc-chí đi vào Trung-Quốc
như hợp phù-tiết. Đế Thuấn, Văn-Vương trước sau đông-tây,
đường lối nam-bắc, nếu so-sánh thấy như một. Đó là khảm bắc
số 1. Tiên-thánh, hậu-thánh đường lối chỉ là một. Điều đó
nói lên thánh-nhân đắc-chí trước sau như một, bất-đắc-chí
trước sau như một. Về sau đường lối Khổng-tử là một vậy.
Đường lối Mạnh-tử cũng là một vậy.
H́nh 6.42 Nghiêu Thuấn, Thành Thang
Trong H́nh 6.42, Thiên-địa nam-bắc ly-khảm thủ-vỹ là
đạo-thống thủ-vỹ thủy-chung Đế-vương Thánh-hiền dùng để
tiếp-tục truyền lại đời sau qua ly-khảm. Cho nên Nghiêu
Thuấn ly trên, Thang khảm dưới truyền-thế, đời sau nh́n lại
là Thang ly trên, Văn-Vương khảm dưới, rồi Văn-Vương ly
trên, Khổng-tử khảm dưới, trên dưới đều do quái-số 5, đều do
hơn năm trăm năm, từ ly trên đưa mắt nḥm xuống ắt thấy mà
biết. Đến như khảm dưới tai nghe, ắt nghe mà biết được. Trên
dưới ly-khảm truyền lại đời sau, từ Nghiêu, Thuấn cho đến
Thang, từ Thang cho đến Văn-Vương, từ Văn-Vương cho đến
Khổng-tử đều như thế cả. Từ Khổng-từ truyền đến Mạnh-tử,
Đạo-thống truyền đời gián-đọan ly-khảm thủ-vỹ cuối cùng sợ
sệt vậy.
Từ Khổng-tử đến Mạnh-tử chỉ hơn một trăm năm chứ chưa đến
hơn 500 kết thúc đạo thống của các đời trước. Mà tượng
thiên-địa ly-khảm thủ-vỹ, ly ngọ Kiền trung-thiên, Nghiêu
Thuấn truyền-thế, ngọ mùi thân dậu, Nghiêu Thuấn rồi Thang,
rồi Văn-Vương, rồi Khỏng-tử, từ ly ngọ đến đoài dậu đều là
thánh-nhân sự đồng sự loại nơi trời đất, mà ngọ dậu kết-thúc
ở tuất, tức thấy ngay kết cục khác thường. Cho nên người
quân-tử phản kinh mà thôi. Kinh-chính thứ-dân, vô-tà ấy
chính là ứng vậy. Hóa ra là tây-bắc tuất-hợi không số làm
gián-đoạn chu-kỳ 500 năm của liên-tục đạo-thống tại tuất là
vô-hữu; trời đất nam-bắc, ly khảm nam-bắc, đuôi không
kết-thúc, là sau Mạnh-tử là vô-hữu ư? Chẳng qua Dịch là
pháp-tượng của trời đất. Cổ-đế-
H́nh 6.43 Thánh Hiền
vương hành-sự, thánh-hiền lập thuyết đều dựa vào pháp-tượng
của trời đất, đều từ
tượng mà nghĩ rồi mới nói, nghị rồi mới hành-động, nghĩ-nghị
để thành biến-hóa, biến-hóa là h́nh-thượng-đạo của Dịch,
nghĩ-nghị là h́nh-hạ-khí của Dịch. Đặt để cất lên chính là
cái mà bàn dân thiên-hạ gọi là sự-nghiệp. Cổ-đế-vương
hành-sự đều như thế cả. Các kinh-đồ trong năm quyển Thư-kinh
và Chu-Quan đều là đại-tượng-đồ của
Dịch ngơ hầu hiểu Dịch và thấy các kinh khác đều xuất-phát
từ đại-tượng nguyên-thủy của trời đất. Nghi-lễ trong kinh,
Dịch-chỉ trong quái-hào phần nhiều như thế. Đến như
Luận-Ngữ, theo ḷng muốn mà không vượt qua khuôn–phép = từng
tâm sở dục bất du củ (Luận-Ngữ II/4), đều có khí tại đồ
không kiềm-chế, đều là thuyết nghĩ-nghị biến-hóa của
thượng-đạo nghĩ-nghị. Năng hiểu rơ điều ấy tức thị có thể
nhất nhất tự-thông, về Dịch có thể vứt bỏ h́nh-hạ-khí mà bàn
h́nh-thượng-đạo. C̣n như nếu không hiểu h́nh-hạ-khí, th́ bàn
về h́nh-thượng-đạo có thể sai ngàn dặm mà không hay vậy. Cho
nên các Dịch-đồ thượng-dẫn đều là h́nh-hạ-khí đấy. Khá coi
chừng!
Xem tiếp Kỳ 76
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|