|
HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
CHƯƠNG
07
DỊCH NGOẠI-HÀM
易
外
函
(Tiếp theo Kỳ
85)
Dịch Tu-Từ
⑰
Biện thị dữ phi:
(Chu Dịch Chỉ,
220,
Tập VIII, tr. 301-305)
Trước khi đọc tiếp, xin thức-giả ôn lại tiết-mục 'Khôn
trực-phương, Kiền-hoàn-đại' nơi bài kỳ 81. Dịch-gia mà về
sau giữ vững được niềm tin, th́ thị-phi càng không thể không
bàn đến. Như Ngu-thị Dịch, tiết-mục Khôn sơ tư, con giết
cha, tôi thí vua, tượng bảo là Khôn âm từ từ mà thành Độn
giết cha. Từ từ thành Bĩ thí vua. Dịch Khôn âm ngộ sơ Cấu,
mùi nhị Độn, trời đất nam-bắc, ngọ quá giữa, mùi Độn thoái,
muôn vật nơi mùi, biết tiến, biết lui, đă không phạm lỗi quá
trung, quân-tử Độn thoái, chắc chắn làm quân-tử, tiểu-nhân
Độn thoái vẫn là tiểu-nhân, duy tiểu-nhân không biết lùi,
Khôn âm tiến bèn thành Bác. Thượng Kiền cha, thể chẳng thấy,
mà cấn cùng-hào, nam cùng là tượng nghịch-thượng, giết cha
(Giết cha đều là nam-cùng, sợ giết tứ-nghịch). Bèn là Bác
biến gần kề, da thân-phụ, tan nhà, là tượng gia-diệt. Ấy là
do quẻ Bác, Khôn dần dần từ đó mà ra, con giết cha vậy. Có
thể bảo là quẻ Độn được sao ? Khôn âm, thân tam Bĩ, trời đất
tây-nam đông-bắc, ngũ-nhị Bĩ, ngôi chính đáng vậy. Vua kiền
tôn, bầy tôi khôn thấp hèn, trời tôn, đất ti, kiền-khôn
định, là Bĩ, tức thiên huyền điạ hoàng, trên dưới biện-bạch,
là Bĩ, là không có chuyện bầy tôi qua mặt mối lo cuả vua.
Duy tiểu-nhân gặp Bĩ, không biết đường lui, khôn âm tiến bèn
tích bất-thiện thành Bác, lại tích bất-thiện thành khôn
chung. Bên trên không thấy tượng kiền quân-thể, khôn ở trên
kiền, kháng-long chiến kiền, máu đen vàng, là tượng
nghịch-thượng, tôi giết vua. Bèn là khôn 'mê phục chung hữu
đại-bại, dĩ kỳ quốc-quân hung = mê-muội không trở lại, rút
cuộc thua to, đến như ông vua trong nước th́ xấu' (Phục
thượng-lục). Khôn 'phục sương' là tượng gia diệt, quốc diệt.
Ấy là khôn dần dần từ đó mà ra, tôi giết vua, mà bảo là quẻ
Bĩ, coi được sao ? [Bĩ là vua quá tôn, tôi quá thấp hèn,
thiên-hạ vô-bang, vô-tại, thần-hạ bao thừa (bao dung sự vâng
thuận), bao tu (chứa đựng sự xấu-hổ) mà đánh đổ cái Bĩ vậy
(Bĩ lục-nhị, lục-tam và thượng-cửu)]. Ấy là tượng trời đất
đại-biến, Phục tư biến Bác, kiền quân-phụ (vua, cha) biến
khôn, đều là tây-bắc tuất, ghét tích mà tượng là tượng diệt
rành rành như thế mà bảo rằng Độn, Bĩ là quẻ mùi, thân, mà
coi được sao ? Tự-quái-truyện có cha con, có vua tôi,
Ngu-Phiên dựa theo quẻ Hàm nói là : trên có kiền cha, dưới
có cấn con, tam đi lên thượng, trên kiền vua, dưới khôn tôi,
bảo là có cha con. Độn, kiền-cấn có vua tôi, Bĩ kiền-khôn,
Độn-Bĩ là cái Ngu-Phiên gọi là quẻ con giết cha, tôi thí
vua. Nơi Tự-quái-truyện, tại sao lại lấy con giết cha, th́
c̣n ǵ là cha con nữa, mà bảo là Tự-quái-truyện có cha con
sao ? Tại sao lấy tôi thí vua, vua tôi không c̣n là vua tôi
nữa, mà bảo là Tự-quái-truyện có vua tôi sao ? Không biện
thị-phi có thể được sao ? Khôn lợi tây-nam được bạn, tây-bắc
mất bạn, là Khôn-thân tây-nam đối Kiền-dần tây-bắc. Thân-dậu
nam được bạn dương đông-bắc. Được bạn lợi dần đông-bắc, mất
bạn âm tây-nam, mất bạn lợi (Dần Thái-nhị bạn mất), mà quẻ
Khôn âm chủ lợi, Kiền là quẻ dương vậy. Mà họ Ngu bảo rằng
được bạn dương-minh, mất bạn âm tối, chủ nạp-giáp tây-nam
chấn xuất cấn, đoài thấy đinh, đương nguyệt-hậu dương-minh,
là tây-nam được bạn, bảo đông-bắc khôn nhập ất, khảm tàng
quư, đương nguyệt-hậu âm-hối, là đông-bắc mất bạn, ắt là
được bạn dương-minh Khôn lợi, mất bạn âm-hối Khôn bất-lợi,
Khôn Thoán-từ nói, lợi tây-nam được bạn, đông-bắc mất bạn,
là sao vậy ? Dịch tiên-hậu–canh (hào-từ cửu-ngũ quẻ Tốn) đối
tiên-hậu-giáp (Lời Thoán quẻ Cổ), tức tây-nam thân-canh đối
đông-bắc dần-giáp. Họ Ngu, chỗ 'tây-nam được bạn', cử-lệ
canh-đinh, chỗ 'đông-bắc mất bạn', cử-lệ giáp-quư, mà bèn bỏ
rơi đông-bắc giáp, dẫn đông-nam ất để hoàn-tất đông-bắc quư,
là cái lư-thú ǵ ? Ấy là Họ Ngu lấy nguyệt-hậu giáp
kiền-hoàn không đúng phép. Cái mà họ Ngu bảo là 'mất bạn âm
tối' chẳng qua chỉ là bỏ qua đông-bắc giáp không nói tới mà
lại dẫn đông-nam ất để hoàn-tất đông-bắc quư. Mà đông-bắc
giáp biểu-đạt tượng Kiền-quả không đề-cập, bỏ hay là không
bỏ ? Chỗ 'mất bạn', đúng ru ? Sai ru ? Điều đó hẳn không
phải là tượng thiên-điạ nguyệt-hậu nạp-giáp, không phải là
nguyệt-hậu Khôn tây-nam được bạn dương đông-bắc, tây-nam
thân tam-nhật, chấn xuất-canh, đông-bắc mất bạn âm tây-nam,
đông-bắc dần 15 ngày, Kiền doanh giáp. Ấy là nguyệt đă đến
rồi, Khôn-nguyên trực-phương đă hợp nhật-đại, Kiền-hoàn-đại
rồi. Đó chính là tượng Kiền-nguyên. Khôn tây-nam được bạn,
đông-bắc mất bạn, là lợi vậy. Mà bảo rằng Khôn âm-hối mất
bạn, bèn bỏ đông-bắc doanh-giáp, dẫn nguyệt-hậu nhập ất tàng
quư, là không biện phải trái, coi được sao ? Tốn 'tiên canh
tam nhật, hậu canh tam nhật', họ Ngu chủ-trương nạp-giáp,
lấy ba hào cuả Tốn, biến thượng, hạ-quái cuả Tốn biến, Kiền
nhị biến ly là nhật, tam biến chấn làm canh, là 'tiên canh
tam nhật', Tốn thượng-quái lại tứ-biến, Kiền-ngũ biến ly là
nhật, thượng-tam biến chấn là canh, là 'hậu canh tam nhật'.
Điều đó họ Ngu trưóc sau biến ba hào cuả Tốn, là Tốn
đối-quái (1’s complement), là nói về 'tiên-hậu canh tam
nhật' vậy. Cổ 'tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật', họ
Ngu chủ-trương nạp-giáp, lập lại điều-lệ quẻ Tốn. Cũng lấy
ba hào quẻ Cổ, biến thượng thành nhật số 3, mà hạ-quái cuả
Cổ, sơ-biến kiền là giáp, nhị biến ly là nhật, bèn không
biến tam mà làm 'tiên giáp tam nhật', mà bỏ đi hào tam không
biến như trong trường-hợp quẻ Tốn. Ắt tam-chấn là canh, Cổ
hạ-quái mà là 'tiên canh tam nhật', không phải là 'tiên giáp
tam nhật' vậy. Vả chăng, lệ biến cuả quẻ Tốn cũng như cuả
quẻ Cổ, sơ-biến kiền là giáp, nhị biến ly là nhật, bèn không
biến tam, hạ-quái Tốn là 'tiên giáp tam nhật', chứ không
phải là 'tiên canh tam nhật' vậy. Thượng-quái quẻ Cổ bèn bảo
tam đi lên tứ thành ly là nhật, ngũ biến kiền là giáp, bèn
không biến thượng mà là 'hậu giáp tam nhật', để bỏ đi
thương-hào không biến, như lệ biến quẻ Tốn. Ắt thượng-đoài
là đinh, thượng-quái quẻ Cổ mà là 'hậu đinh tam nhật'. Không
đúng. 'Hậu giáp tam nhật' mới đúng vậy. Điều ấy Họ Ngu bảo
là Cổ tiên-hậu tam hào như quẻ Tốn quái-biến. Cổ tiên-hậu là
'tiên canh tam nhật, hậu đinh tam nhật', chứ không phải là
Cổ tiên-hậu giáp. Tốn tiên-hậu tam-hào, như Cổ quái-biến.
Tốn tiên-hậu là 'tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật', chứ
không phải là Tốn tiên-hậu canh. Nói như Ngu-Phiên là bảo
'tiên canh' quẻ Ích, kịp 'hậu canh' quẻ Chấn, 'tiên giáp'
quẻ Bí, cùng là 'hậu giáp' quẻ Vô-vơng. Vả nay nói về
bản-quái Tốn-Cổ, lệ cuả chúng nên theo Tốn biến 6 hào, nên
theo Cổ chỉ biến các hào sơ-nhị-tứ-ngũ mà lại lấy
tam-liên-tứ mà nói sao ? Lệ cuả họ Ngu mới bàn xong: Chấn
canh. kiền giáp, đoài đinh, tạp-xuất, các quẻ Ích, Bí c̣n
bàn đến làm ǵ. Cũng giống như đông-bắc mất bạn, điều chướng
tai gai mắt vứt đi chẳng đặng, điều chuẩn-xác gom lại chẳng
xong. Họ Ngu chẳng tự công-phá điều trái khoáy, th́ c̣n ai
chiêu hồi được điều đúng nữa. Không biện thi-phi được sao ?
Trong Kinh Dịch 'tùy phong Tốn', 'Cổ hành-sự', 'tiên-hậu
canh-giáp' là những đại-tượng, đại-số cuả trời đất. Tự-tiện
nói về Dịch mà xuyên-tạc cỗi rễ cuả Dịch, không-ngôn,
lư-luận vu-vơ, đối với dịch phù-du lắm. Nói về tượng, có
chấp-cứ ắt có thị-phi để mà minh-biện. Ngược lại, không có
chấp-cứ, ắt hẳn không có thị-phi để mà bàn-soạn. Trị Dịch
theo phương-thức ấy khó lâu bền được.
⑱
Trọng-Ni mặc thị tam trần cửu quái:
(Dịch-Đồ Lược,
248,
tr. 469-470; Chu Dịch Chỉ, VII, tr. 76-78)
Hệ-Hạ VII/2, 3, 4 thuật lại viêc Đức Khổng-tử ba lần trần
thuyết chín quẻ Lư
J,
Khiêm O,
Phục X,
Hằng `,
Tổn i,
Ích j,
Khổn o,
Tỉnh p,
Tốn y.
Tiết 2 nói về bản-tính cuả chín quẻ; Tiết 3 bàn về
thuộc-tính cuả chín quẻ; c̣n Tiết 4 lại b́nh-luận vế
diệu-dụng cuả chín quẻ. Mục-đích toàn chương là để làm sáng
tỏ Dịch-đạo ở thời ưu-hoạn.
Trong tŕnh-tự cuả cửu-quái, quẻ Phục là bản-tâm, dẫn đường
bởi hai quẻ Lư, Khiêm.
Quẻ Lư, thượng thiên hạ trạch, đời người trước tiên nên biện
ngửa xem văn trời, cúi xét lẽ đất, mà tâm thân này đă đạt
tố-lư (cái đi trong trắng như bản-chất), Lư cũng có
đắc-thất, lại cũng tùy thuộc Khiêm với Bất-Khiêm : Khiêm th́
tinh-thần hồn thâu, tụ bên trong, bất-khiêm th́ tinh-thần
hồn lưu, hoán-tán ra ngoài. Duy năng biện được một thân ta,
sao cho trong trời đất, cử-chỉ, động-tác đều có lư-do,
liễm-tàng tinh-thần vào trong ḿnh, ắt thân này mới hội-nhập
được Lư. Sau đó mới đến lượt Hằng, Tổn, Ích, Khổn. Bởi chưng
bản-tâm có Phục, mới bắt đầu khắc-chung được và c̣n phải vứt
bỏ nhiều mới được Hằng mà trở thành kiên-cố, tư-dục lần lần
tiêu-ma, mà làm tổn thiên–lư, ngày ngày trừng-oanh, mà thành
Ích. Tuy trải qua nhiều nguy-hiểm, cùng-khốn mà tâm này
trác-nhiên bất-động mới đạt được tả-hữu phùng nguyên, nơi
nơi tạc-tỉnh thủ-tuyền. Lúc đó ắt thuận lư hành động như gió
xông lên, thoái tàng nơi mật.
①
Bản-tính cuả cửu-quái:
Quẻ Lư là nền móng cuả đức nghiệp: quẻ thứ 10 cuả Văn-Vương
Tự-quái minh-dụng số 10 và dạy người quân-tử phải phân-biện
trên dưới.
Quẻ Khiêm là cái cán cuả đức độ: quẻ thứ 15 cuả Văn-Vương
Tự-quái minh-dụng số 15 và dạy người quân-tử phải bớt chỗ
thừa, bù chỗ thiếu.
Quẻ Phục là cỗi rễ cuả đức tính: quẻ thứ 24 cuả Văn-Vương
Tự-quái minh-dụng số 24 cuả Văn-Vương Tự-quái chỉ rơ cho
người quân-tử manh mối cuả khí-biến.
Quẻ Hằng là cái trụ vững bền, thủy chung như nhất cuả
đạo-đức: quẻ thứ nh́ cuả Hạ-Kinh chứng thực bắt đầu cuả
h́nh-hoá.
Quẻ Tổn là trau dồi đức dục.
Quẻ Ích là cái khoan thai phát-triển đức-dung: hai quẻ
Tổn-Ích bảo cho con người biết đầu mối cuả thịnh-suy.
Quẻ Khổn là xét nét cuả đức-hạnh.
Quẻ Tỉnh là đất dụng vơ cuả đức-hoá. Hai quẻ Khổn-Tỉnh chỉ
cho con người biết nghiă cuả thiên-thông (thông-biến).
Quẻ Tốn là chế-nghi đức-tháo ngơ hầu hành-quyền. Quyền là
đại-dụng cuả Thánh-nhân, nhân sự việc mà tùy thời chế-nghi,
biến-dịch. Nghiă cuả Dịch đầy đủ vậy.
②
Thuộc-tính cuả Cửu-quái:
Lư là hoà-thuận mà tiến tới.
Khiêm là tôn-nghiêm mà sáng láng.
Phục là dương tuy nhỏ bé mà biết phân-biệt với vật (âm)
hằng-thời phức-tạp mà chẳng rối loạn.
Tổn là trước khó, sau dễ.
Ích là khoan thai, lâu dài mà chẳng bầy vẽ.
Khốn là cùng thông. Tỉnh là ở tại chỗ mà dời đi được.
Tốn là xứng-đáng mà kín đáo.
③
Diệu-dụng cuả Cửu-quái:
Lư là
để làm cho nết na hoà diụ.
Khiêm là để đào-chế ở điều lễ.
Phục là để ḿnh tự biết ḿnh.
Hằng là để làm cho đức cuả ḿnh được thuần-phác.
Tổn là để tránh xa điều hại.
Ích là để làm cho điều lợi dấy lên được.
Khốn là để giảm thiểu điều oán trách.
Tỉnh là để biện-minh điều nghiă.
Tốn là để làm việc quyền-biến.
⑲
Nhật
nguyệt văng lai, vận-hành:
(Dịch
Thông Thích,
296,
tr. 1072-3)
Đây là một thí-dụ hùng-hồn Kinh Dịch tự-chú-thích. Trong
Hệ-Thượng V/1, Thánh-nhân tán Dịch và bảo rằng: "Nhất âm
nhất dương chi vị đạo = Môt âm và một dương gọi là đạo", để
mà răn: "Tích bất thiện chi gia tất hữu dư-ương. Thần thí kỳ
quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố. = Nhà
nào chứa điều chẳng lành, ắt có thừa tai vạ, bầy tôi giết
vua, con giết cha, nguyên do không phải từ một sớm một
chiều." (Khôn Văn-ngôn). 'Một sớm một chiều' tức 'Môt âm và
một dương'. Nguyên-do là sự việc vậy. Thông-biến là sự việc
vậy. Duy năng biến-thông th́ là 'môt âm và một dương', c̣n
chẳng biết biến-thông, ắt chẳng phải là 'một sớm một chiều'.
Biến-thông tức vận-hành văng-lai. Phàm nói nhật-nguyệt,
hàn-thử, triêu-tịch, đều là nói âm-dương cả. Âm-dương tức
cương-nhu. Hệ-Thượng V/2 nói: "Nhật văng tắc nguyệt lai,
nguyệt văng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương-thôi nhi minh
sinh yên ; hàn văng tắc thử lai, thử văng tắc hàn lai, hàn
thử tương-thôi nhi tuế thành yên ; văng giả, khuất dă, lai
giả thân dă, khuất thân tương-cảm nhi lợi sinh yên = Mặt
trời đi th́ mặt trăng lại, mặt trăng đi th́ mặt trời lại,
mặt trời, mặt trăng cùng đắp đổi mà ánh sáng sinh ra vậy;
rét đi th́ bức lại, bức đi th́ rét lại, rét bức cùng đắp đổi
mà năm tháng thành ra vậy; cái đi là co, cái lại là duỗi, co
duỗi cùng thông-cảm nhau mà lợi sinh ra vậy." Lấy
'thiên-điạ nhân uân, vạn-vật hoá thuần = Khí trời đất
điều-hoà, th́ muôn vật đều hoá thuần-túy' (Hệ-Hạ V/12) để
tán-dương quẻ Tổn, lấy 'hàn thử thành tuế = rét bức thành
năm tháng' (Hệ-Thượng V/2) để tán-dương quẻ Hàm. Sở dĩ hiểu
rơ bốn quẻ Hàm-Hằng, Tổn, Ích, 'dữ thời giai hành = tiến
cùng thời-gian' (Kiền Văn-ngôn). Trong bốn quẻ này chỉ có
hai quẻ Tổn-Ích là có tượng Hồn–thiên bao bên ngoài mà
thôi. Tượng này được điạ-cầu tṛn nằm bên trong. Tổn lục-tứ
với hào-từ 'Tổn kỳ tật sử thuyên hữu hỉ = Bớt cái tật cuả
ḿnh, khiến cho đi mau', là xuân-thu-phân. Thượng-cửu,
cửu-nhị là b́nh-hành. Sơ-cửu, thượng-cửu là sai-biệt
doanh-xúc. Tổn, điạ-cầu gần thượng-cửu, ắt là doanh-sơ, là
đông-chí, là cái mà Tân-Thuật gọi là rất thấp. Ích,
điạ-cầu gần sơ-cửu, ắt là xúc-sơ, là hạ-chí, là cái mà
Tân-Thuật gọi là tối-cao. Đông-chí nhất-dương-sinh, nên
là doanh-thủy, bảo là do Tổn mà trở thành Ích ; hạ-chí,
nhất-âm-sinh, nên là suy-thủy, bảo là do Ích mà biến-thông
ra Hằng, đó là cái gọi là tổn-ích doanh-hư dữ thời giai
hành. Trời đất doanh-xúc, cao-ti, mà sau mới có lạnh nóng,
đông-hạ, mà sau muôn vật mới sinh cái gọi là 'nhân uân hoá
thuần'. Như thế mặt trời di-chuyển chậm lại, mà số ngày
nhiều ra, cho nên cái ǵ cũng tăng. Đông-chí nhật hành đầy
đặn, mà số ngày ít đi, nên cái ǵ cũng giảm. Từ Hán-Đường
đến giờ, sáng-lập ra mạnh yếu, nhanh chậm, tiêu-trưởng, cao
thấp, mỗi mỗi họ Bào-Hi (tức Phục-Hi), gói trọn vào hai hai
chữ tổn-ích. C̣n Đức Khổng-phu-tử lại dùng bốn chữ
'thiên-điạ nhân uân' để diễn-ư, đó chính là tượng doanh-xúc
cao-ti bất-tề vậy. Hệ-Thượng I/3 nói: "Nhật nguyệt vận-hành,
nhất hàn nhất thử. = Mặt trời, mặt trăng xoay vần, một lạnh,
môt nóng". Nơi hào cửu-tứ quẻ Hàm lại sướng-phát nghiă câu
này bằng tiểu-đoạn Hệ-Thượng V/2. Ly là mặt trời, khảm là
mặt trăng, kiền là rét, khôn là bức: cả bốn quẻ đơn đều có
nói trong Thuyết-quái-truyện. Hàm-Hằng đều hỗ Kiền, Tổn-Ích
đều hỗ Khôn. Ngu-Phiên bảo khôn là bức. Hằng đă thành Hàm ắt
'rét đi' thông với Tổn, ắt 'nóng lại', Tổn đă thành Ích, ắt
'nóng đi' thông với Hằng, ắt 'rét lại', Kư-tế trên khảm,
Vị-tế trên ly. Thái trên khôn, Bĩ trên kiền, Thái thành
Kư-tế ắt 'trăng lại', Kư-tế thông Vị-tế ắt 'mặt trời lại',
Vị-tế thành Bĩ, ắt 'một rét' vậy. Bĩ thông Thái, ắt 'một
bức' vậy. 'Một bức, một rét' do nơi nhật-nguyệt vận-hành, và
do tám quẻ : Hàm, Tổn, Hằng, Ích, Bĩ, Thái, Kư-tế, Vị-tế
biến-thông không ngừng. Không phải 'nhật-nguyệt, hàn-thử
văng lai' mà thôi đâu, đặc-biệt là do điều Hàm phát ra là
'âm-dương cuả nam-nữ' tức thị 'nhật-nguyệt cuả khảm-ly'. Sở
dĩ Thánh-nhân chuẩn thiên-đạo mà định nhân-đạo vậy. Tấn
Thoán bảo: "Trú nhật tam tiếp = Sáng ngày ba lần tiếp".
Tạp-quái-truyện bảo 'trú' là quẻ Tấn mà 'dạ' là quẻ Minh-di.
Ắt Kinh nơi hào cửu-nhị quẻ Quyết nói: "Dịch hào mộ dạ hữu
nhung, vật tuất = Lo lắng kêu gào, đêm tối có động-binh, chớ
lo". Quyết không tin ở Bác, mà hào tứ đi đến hào sơ quẻ
Khiêm thành Minh-di là chữ 'mộ' cuả mộ-dạ. Trong 'Độc như
Tự-giải', Trịnh Khang-thành tức Trịnh-Huyền viết: "Mạc là vô
vậy." 'Mạc dạ' cũng như nói: 'mạc ích', bảo là không thể
sai-khiến Khiêm sơ thành Minh-di vậy. Hệ-Thượng II/4 nói:
"Cương-nhu giả trú dạ chi tượng dă = cứng mềm là tượng ngày
đêm vậy". Hệ-Thượng IV/4 lại nói thêm: "Thông hồ trú-dạ chi
đạo nhi tri = Thông suốt cái đạo ngày đêm mà hiểu biết". Bên
dưới tức lấy 'một âm và một dương' mà minh-hoạ. Vậy ắt đêm
là nhu, là âm, mà trú ắt là cương, là dương. Quẻ Tấn là trú,
chứ không thể nào là 'mặt trời ở trên mặt đất được'. Đó
chính là Nhu nhị đi sang Tấn ngũ vậy. Nhu thông với Tấn
giống như Kư-tế thông với Vị-tế, như 'Khảm nguyệt văng' với
'Ly nhật lai' vậy. Tất lên trời, mà chiếu sáng bốn nước. Cho
nên 'Tấn trú' tất lấy 'Nhu nhị đi sang Tấn ngũ' mà 'trú' bèn
soi sáng Bĩ thông với Thái, in hệt Tụng thông với Minh-di.
Đêm không trăng ắt đêm tối. Cho nên Thái nhị đi sang ngũ,
Tụng nhị đi sang Minh-di ngũ, ắt mặt trăng lại, mặt trăng
lại mà đêm đến sáng trăng. Đó chính là 'Nhật nguyệt tương
thôi nhi minh sinh yên = Mặt trời, mặt trăng cùng trao đổi
mà ánh sáng sinh ra vậy' (Hệ-Hạ V/2). Hào-từ Kiền cửu-tam
nói: "Quân-tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược lệ,
vô-cữu = Người quân-tử phải suốt ngày mau mắn, đến tối c̣n
lo toan, như nguy mà chẳng lỗi ǵ". Kiền thành Gia-nhân,
Khôn thành Truân, hai hào ngũ đều cương, hẳn là 'trú' chứ
khộng thể là 'dạ' được. Gia-nhân thượng đi sang Truân tam ắt
là cuối ngày. Cho nên muốn mau mắn liên-tục từ sáng đến tối,
thời gian về đêm, cho nên phản Truân mà thông với Đỉnh. Đỉnh
ngũ nhu là v́ đêm đă đến rồi. Đỉnh nhị đi lên ngũ mà sau
thượng đi sang Truân tam, mặt trời cuả Truân đă tàn, mà Đỉnh
cũng không đến nỗi tối lắm, Đỉnh nhị bèn không đi lên ngũ để
thành Thái, giống như Khiêm thành Minh-di, là v́ chiều đă đổ
xuống thành đêm, đêm không sáng ắt là đen tối, mà sau đó
Thái thông Bĩ, Minh-di thông Tụng, ắt từ tối chuyển qua
sáng, từ muội quay về (quy)
thành đêm, mà ban ngày do ban đêm mà ra, b́nh-minh, trời
hửng sáng (minh) tức tờ mờ sáng tinh mơ. Vậy nên Thái thông
Bĩ, mà nhị đi sang ngũ thành Kư-tế, làm
Quy-muội, muội (em gái)
đồng-âm với muội (mờ tối), Tụng trước bèn không lấy nhị đi
sang Minh-di ngũ, mà lại cho thượng đi xuống tam thành
Đại-quá. Lại cho tứ đi xuống sơ thành Nhu, rồi sau mới lấy
Nhu nhị đi qua Minh-di ngũ, ban đêm cuả Minh-di tuy đă biến
thành ban ngày, bầy thành lưỡng-Kư-tế, mà chung ắt không
phải là thủy mà là chung nơi buổi sáng, bàn đới tam trĩ
[Hoặc tích chi bàn-đới, chung triêu tam trĩ chi = Như thể
thắng kiện mà được ban cho đai lớn, trọn sáng bị tước đoạt
ba lần (Tụng thượng-cửu)], không làm sao cứu-văn được nữa.
⑳
Dịch-Đạo
cuả Thánh-nhân, Quân-tử:
(Dịch
Nhất Quán,
297,
tr. 5-10)
Để hiểu Dịch-đạo cuả Thánh-nhân xin đọc lại bài kỳ 75, phần
nói về các sách Đai-Học,
Trung-Dung và Mạnh-tử.
Bào-Hi tức Phục-Hi tác Dịch quyền dư lịch-đại Thánh-hiền,
không ai là chẳng tự lấy t́m hiểu dịch-lư làm nhiệm-vụ cao
cả. Đối với Thánh-hiền, học dịch tức là vạn-thù-đạo, duy
nhất, quán nhất số 50 cuả Hà-đồ, hằng-tính cuả các quẻ, tịch
nhiên bất động. Quán là 3-8
cuả Hà-đồ, là quẻ Thái cuả 64 quẻ.
Thông là cơ-hội 'Nhất dĩ quán chi', ắt là 1-6 cuả Đồ,
quẻ Hàm cuả các quẻ, là cảm vậy. Đó chính là cái ta gọi là
chung thủy cuả sự vật, bến bờ cuả Đạo, tạo-đoan cuả vợ
chồng'. 'Mệnh trời gọi là tính' (Trung-dung). Tính không bao
giờ bất nhất, tức chí-thiện, tức thành, tức đức
cuả tính, tức-thị cố-hữu cuả bản-tâm. mà ai ai cũng giống
nhau. Cho nên tận-tâm tức là biết tính chí-thành, tức năng
tận-tính. Thánh-nhân thấy được lư nhất-quán, cảm thông cuả
Người thuộc động, khuyếch-nhiên thuộc tĩnh. Cho nên lấy
thân-tâm mà nói, ắt hằng là tâm-tồn, cảm là phát-lự.
Thái là phát-động mà đều đạt đích. Lấy cá-nhân mà nói, Hằng
là tu-đức, Hàm là thi-giáo, Thái ắt là hoá-hành vậy. Hằng
rằng thâm, rằng mặc (im-lặng), thành rằng thành tính tồn-tồn
tồn-tồn (cái tính đă thành rồi, cứ c̣n măi c̣n măi),
tĩnh-chuyên, tĩnh-hạp, rằng tàng-mật, rằng thuyết-phục nơi
tâm, rằng uyên-tuyền (suối cuả vực sâu), rằng ẩn-vi, rằng
thận-độc, rằng chí-thành vô-tức (chí-thành không ngừng
nghỉ), rằng bất-nhị, bất-kỷ, rằng thuần, rằng cửu (đau
ḷng), rằng nội-tỉnh bất cứu (nội-tính không đau ḷng), rằng
không động mà kính-cẩn, không nói mà tin, rằng bất-hiển,
rằng tư-duệ, rằng thành-ư, rằng tâm-quan, rằng không nghĩ
bậy, rằng năng-tĩnh, năng an, rằng nghi-ngờ, rằng thao-tồn,
rằng quả dục, rằng tồn-tâm dưỡng-tính, rằng trực-dưỡng, rằng
hoài nghi trong ḷng, rằng bế-tắc, rằng sung-thực, rằng
an-nhữ-chỉ (an-nhiên tự tại nơi ḿnh dừng lại), rằng
duy-tinh, duy-nhất (phải tinh, phải chuyên-nhất), rằng diệc
lâm diệc bảo-hàm (cùng đến, cùng bảo-hàm), rằng cơ, rằng lự
(suy-tư), rằng gắng gỏi (Thành thiên-hạ chi vỉ vỉ giả = Định
tốt xấu cho thiên-hạ, làm cho thiên-hạ gắng gỏi, Hệ-Hạ
XII/2), rằng tri chí chí chi (biết có thể đi tới được th́ đi
tới, Kiên Văn-ngôn), rằng thành ắt h́nh, rằng thời-xuất (lúc
phải ra tay), rằng trưng, rằng phát, rằng vật vong vật
trợ-trưởng Thái (vật mất, vật giúp sư tăng-trưởng là quẻ
Thái), rằng Đạo, rằng thần, rằng hoà, rằng h́nh tắc trứ, trứ
tắc minh (có h́nh hẳn phải rơ ràng, rơ ràng mới sáng láng),
rằng trúng-tiết, rằng ứng mà đắc-thế, rằng khí hạo-nhiên,
rằng tứ-thể bất ngôn nhi dụ thử giai do tâm chi thân giả dă
suất tính chi vị đạo dă hằng (bốn thể không nói đến mả tỷ-dụ
điều đó đều do thân-tâm vậy. Tuân theo tính gọi là Đạo),
rằng trung, rằng chính, rằng cỗi rễ lớn cuả thiên-hạ, rằng
phản thân nhi thành, rằng tự-đắc, rằng chính-kỷ, rằng cư dị
sĩ mệnh (sống b́nh-dị mà đợi mệnh), rằng dừng nơi chí-thiện,
rằng hữu lâm hữu dung (có đến, có bao dung), kiến-cực, rằng
chấp-trung, rằng đốc cung, rằng thường-quyết-đức, rằng bền
lâu nơi đạo-hàm cuả ḿnh, rằng chăm chắm, chăm chỉ, rằng
tri-hoá (biết hoá), rằng xuất-hiện mà bao giờ dân cũng
kính-trọng, nói mà bao giờ dân cũng tin, hành-động mà bao
giờ dân cũng hài ḷng (Trung-Dung, Chương 31), rằng đi xa từ
gần, lên cao từ thấp (hành viễn tự nhĩ, đăng cao tự ti),
rằng hư dĩ thụ nhân (tâm hư khi thu nhận người khác), rằng
cảm nhân-tâm, rằng tập giáo-sự Thái, rằng thành bất khả yểm
(thành mà không cần phải ép buộc), rằng động ắt biến, biến
ắt hoá, rằng du-viễn (lo xa), rằng thanh-danh mênh-mông tràn
đầy, rằng kinh-luân, rằng thiên-hạ thái-b́nh đều do cá-nhân
ta.
Tu-đạo gọi là dạy-dỗ vậy. Nguồn gốc con người là ta, nguồn
gốc ta là tâm ta. Vậy nên :
Thành-ư Đại-học nguy-nga,
Thời-trung lập-bản chính là Trung-Dung.
Thế th́ Đạo cuả trời đất có xuân tất có thu, có nhân tất có
nghiă, Thái-Bĩ thay mặt vận-mệnh mà đều thống nhất nơi 50,
50 dương ở trong âm, tức nhờ nhân-thái mà nhân thấy rơ vậy.
Trời tôn đất hèn, nghiă bĩ v́ dụng đang giấu kỹ. Bảo đức
nhân cất giấu trong lễ-nghiă vậy. Số 50 ấy chủ tĩnh mà cũng
lại chủ lễ-nghiă vậy. Thánh-nhân đă thấy thái-nhất
thống-lĩnh bốn phương, mà âm-dương cương-nhu, thiên-đạo, điạ
đạo đều tịnh-hành không sai vạy. Cho nên gọi tu-kỷ là kính,
là hoà, là trí-lạc để trị-tâm, là trí-lễ để trị-thân, mà lấy
đức nhân để tồn-tâm, là lời trung-tín, hành-động đốc-kính,
là 'tiến đức sửa nghiệp, giữ trung-tín để tiến-đức, sửa lời,
dựng ḷng thành
để dựng nghiệp' (Kiên Văn-ngôn), khoan-dung để giữ vững đức
nhân ngơ hầu hành-động, là kính để trực-nội, nghiă để
phương-ngoại, là ôn cũ biết mới, đôn-hậu sùng lễ, là 'Gặp
lúc nước nhà trị-b́nh, dù thanh-danh chưa đạt, cũng không
thay đổi chí-hướng và khí-tiết cuả ḿnh; gặp phải hồi nước
nhà loạn-lạc, dù phải chết cũng không thay ḷng đổi dạ.'
(Trung-Dung, Chương 6), là gặp lúc đường cùng cũng không
thất-nghiă, thành-đạt cũng không xa dời đạo lúc trị-dân, là
dùng đức nhân mà yêu thương người, là dùng điều nghiă mà sửa
đổi người, là sang hèn b́nh-đẳng, trên dưới hoà-giai, là
đạo-đức tề lễ, là thủ-vị lấy đức nhân tụ dân, lấy tiền-tài
quản-lư tiền-tài, lấy lời ngay cấm dân làm sằng, là 'Giầu có
th́ gọi là nghiệp cả, càng ngày càng mới th́ gọi là đức
thịnh' (Hệ-Thượng V/5), là 'Tri sùng hiệu thiên lễ ti pháp
điạ', là 'Dương dương hồ phát-dục vạn-vật, tuấn cực vu
thiên, ưu ưu đại tai, lễ-nghiă tam bách, uy-nghi tam thiên',
là 'vi chính tỷ bắc-thần = tham-chính với sự phù-hộ cuả sao
Bắc-đẩu', là đốc-cung mà thiên-hạ thái-b́nh. Tất cả các điều
đó đều là kết-tựu cuả số 50 thống-lĩnh bốn phương. Là lấy
lễ-nghiă thuộc tĩnh làm tâm ta thoái-tàng nhưng bất-tất
vô-sự. Thế th́ đạo kiêm nhân-nghiă, truyền-thuật cuả
thánh-môn chỉ là
nói 'Nhất dĩ quán chi' sao?
Xin thưa: quán là thông. Thiên-hạ vạn-vật đều khởi đầu nơi
thông vạn-sự, đều khởi đầu nơi thông-thái vạn-lư, đều khởi
đầu nơi đức nhân nói rằng 'dĩ quán chi' ắt nhân, nghiă, lễ,
trí đều tụ lại nơi hành-động vậy. Cho nên nói:
"Kiền tri đại thủy, Khôn tác thành vật = Đạo Kiền cai-quản
mối đầu, c̣n đạo Khôn th́ làm thành vật" (Hệ-Thượng I/5). Có
mối đầu rồi sau mới thành vật. Xem xét hội-thông để thi-hành
điển-lễ, có hội-thông rồi sau mới có điển-lễ. Không thông ắt
không có trời đất, không có trời đất, ắt không có sinh
thành, không có sinh thành, ắt không có đạo-nghiă. Ấy là
quan-biến lập-quái, tất bắt đầu nơi âm-dương mà vun trồng
bồi bổ (tài thành phụ-tướng) tất tại trời đất giao vậy
(đại-tượng quẻ Thái).
Duy thiên-hạ chí thành mới kinh-luân nổi đại-kinh cuả
thiên-hạ (quẻ Thái). Dựng đại-bản cuả thiên-hạ (quẻ Hằng).
Biết hoá-dục cuả thiên-hạ (quẻ Hàm). 'Nhất dĩ quán chi',
không thiên-lệch mà cũng không khuyết-hăm vậy. 'Quán chi'
lớn vậy thay ! 'Nhất' lớn vậy thay ! DỊCH lớn vậy thay !
Đạo cuả Thánh-nhân là như thế. C̣n đạo cuả người quân-tử
phải như thế nào ? Người quân-tử trước là tu-thân, sau là
khai-trí tiến-đức. Luôn luôn phải giữ vững hai chữ
trung-chính và trau dồi chín đức căn-bản đă nói ở tiết-mục
⑱
Trọng-Ni mặc thị tam trần cửu quái.
Ngoài ra cần học Dịch theo sát ba Độc-Dịch-đồ 7.19, 7.20 và
7.21 dưới đây:
H́nh
7.19 Độc Dịch Đồ I
Dịch Thượng-Kinh 30 quẻ, Hạ-Kinh 34 quẻ, thoạt trông vào
tưởng không cân bằng. Kỳ thực, Thượng-kinh từ Truân-Mông
đến Vô-vơng-Đại-súc,
Hạ-kinh từ Hàm-Hằng
đến Hoán-Tiết
cũng như Kư-tế-Vị-tế,
hai quẻ chỉ kể làm một v́ chúng tương-tổng. Tám quẻ c̣n lại,
quẻ nào kể quẻ nấy, v́ chúng tương-thác (1’s complement).
Thành thử ra, Thượng-kinh và Hạ-kinh đều có 18 quẻ, và
Toàn-kinh gồm 36 quẻ tức thị cái Thiệu-tử gọi là
Tam-thập-lục-cung đô thị xuân. Chính giữa là tám quẻ
bát-thuần : hàng trên là bốn chính-quái, c̣n hàng dưới là
bốn tạp-quái.
H́nh
7.20 Độc Dịch Đồ II
Trong H́nh 7.20, cho 8 quẻ tương-thác cuả Bản-kinh chen lẫn
nhau, để vẽ thành Viên-đồ: thượng-hạ 8 quẻ dương đều ở
trên, thượng-hạ 8 quẻ âm đều ở dưới, bởi chưng dương-khí
khinh-thanh nổi lên trên, c̣n âm-chất trọng-trọc ngưng ở
dưới. Phản-đối-số đều là 9 : các quẻ đối-đỉnh, cộng số cuả
thượng-quái vời nhau, cộng số cuả hạ-quái với nhau.
Trong Kinh có 8 quẻ tương-thác là : Kiền, Khôn, Di, Đại-quá,
Khảm, Ly, Trung-phu và Tiểu-quá.
Trong h́nh 7.21 th́
An theo phương-vị Tiên-thiên bát-quái để vẽ nên Viên-đồ sao
cho 8 thượng-quái giữ nguyên vị-tŕ tiên-thiên cố hữu
định-vị (Kiền
!
1, Đoài
#
2, Ly
%
3, Chấn
'
4, Tốn
)
5, Khảm
+
6, Cấn 7, Khôn
/
8), c̣n hạ-quái th́ nghịch-chuyển (xoay theo
chiều kim đồng-hồ) (Kiền 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5,
Khảm 6, Cấn
7, Khôn 8). Thế mới hay là âm-dương thuận-nghịch suy-vi, mà
khảm-ly tất giao-hỗ để làm dụng, sinh nhân thành thánh. Ở
h́nh này thượng-hạ phản-đối-số cũng là 9.
H́nh
7.21 Độc Dịch Đồ III
Thiệu
Bá-Ôn, trưởng-nam cuả Thiệu-tử, có nói một câu chí-lư:
"Hoàng-Cực là ĐẠI-TRUNG mà Kinh Thế là CHÍ CHÍNH".
THƯ-TỊCH-KHẢO
220
Chu Dịch Chỉ
周易指,
8 Tập, Nhất-bản, Thanh×Hạc-điền
Đoan-Mộc Quốc-Hồ
鶴田端木國瑚
soạn, Tân-văn-phong, Đài-bắc, tháng 7-1995.
248
Dịch Đồ Lược
易圖略,
Tiêu-Tuần
焦循
(1763-1820) soạn, in Hoàng-Thanh Kinh-Giải Dịch-Loại
Vựng Biên
皇清經解易類彙編
(tr. 1161-1217), Nghệ-văn Ấn-thư-quán,
Đài-bắc.
268
Học Dịch Bút-đàm
學易筆談,
2 Tập, Hàng Tân Trai杭辛齋
(1869-1924) trước, in Hàng-thị Dịch-học Thất Chủng杭氏易學七種
(Sơ-tập,
tr. 251-446;
Nhị-tập,
tr. 447-651),
Chu-dịch Công-tác-thất điểm-hiệu, Cửu-châu Xuất-bản-xă,
Bắc-kinh, Tháng 1-2005.
279
Chu Dịch Thuật
周易述,
Đệ-nhất-bản, Thanh
è
Huệ-Đống
惠棟
trước, Học-hải-đường Bản, Cổ-tịch Thư-điếm, Thiên-tân, Tháng
10-1989.
280
Xuân Thu Phiền-Lộ Nghĩa Chứng
春秋繁露義證,
Nhất bản, Tây-Hán
è
Đổng Trọng-Thư
董仲舒(179?-104
BC) nguyên-tác, Tô Dư
蘇輿
sọan, Chung Triết
鐘哲
điểm-hiệu, Trung-Hoa Thư-cục, Bắc-kinh, Tháng 12-1992.
013
Thực-dụng Kỳ-môn Độn-giáp
實用奇門遁甲,
Trần Anh Lược
陳英略
biên soạn, Quỷ-cốc-tử Tung Hoành Học-thuật Nghiên-cứu-viện,
Hongkong, 1980.
292
Kỳ-Môn Độn-Giáp Bí-Cấp Đại-Toàn, Nhị-bản, Lưu Bá-Ôn
hiệu-đính, phụ Xuất-Sư, Xuất-Hành Bửu-Kính-Đồ, Vũ-lăng,
Đài-bắc, Tháng 8-1988.
293
Hoàng-Đế Thái-Ất Bát-Môn Nhập-Thức-Quyết , Nhất-bản,
Vô-danh-thị trước, Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 1-1995.
294
Hoàng-Đế Thái-Nhất Bát-Môn Nhập-Thức Bí-Quyết , Nhất-bản,
Vô-danh-thị trước, Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 1-1995.
295
Gia-Cát Vũ-Hầu Kỳ-Môn Độn-Giáp, Nhất-bản, Ngu-Lôn Chủ-nhân
trước, Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 1-1995.
296
Dịch
Thông Thích
易通釋,
Tiêu-Tuần
焦循
(1763-1820) soạn, in Hoàng-Thanh
Kinh-Giải Dịch-Loại Vựng Biên
皇清經解易類彙編
(tr.
877-1143),
Nghệ-văn Ấn-thư-quán, Đài-bắc.
297
Dịch
Nhất Quán
易一貫,
Sơ-bản, Lă Điều-Dương
呂調陽
trước, Tân-văn-phong, Đài-bắc, Tháng 10-1979.
298
Dịch
Tượng Sao
易像鈔,
Sơ-bản, Minh
●
Hồ Cư-Nhân
胡居仁
soạn,
Tân-văn-phong,
Đài-bắc, Tháng 10-1983.
299
Hoàng-cực Kinh-Thế Tự-Ngôn
皇極經世緒緒言,
Tam Xuyên Thiệu Ung Nghiêu-phu
三川邵雍堯夫
trước, Hiệu Kinh Sơn-Pḥng, Thượng-hải, 1920.
Xem Kỳ 87
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|