|
HÁN
VIỆT DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
KHÍ-HUYẾT
Khí
Nạp Tam-tiêu, Huyết Quy Bào-Lạc
Khí
Khí
thụ-sinh nơi tam-tiêu, hoá-hành nơi bao-lạc, vận-hành cuả
âm-dương khí-huyết đều theo con đường ấy.
Quyết khai-huyệt lưu-chú là: "Khí nạp tam-tiêu
huyết quy bao-lạc". Linh-khu-kinh nói: "Con người thụ khí
nơi vỏ, vỏ nhập vào bao-tử, ngũ-tạng, lục-phủ, đều là
thụ-khí". Lại nói: "Khí nhận vào đó, bí tao-phách, chưng
tân-dịch, hoá thửa tinh-vi, bèn hoá thành huyết". Thuyết ấy
bèn thành cương-yếu lư-luận huyết-khí.
Ôi! Nhân-thân trông cậy vào khí đó để sống, nguồn
xuất trung-tiêu, mà tụ-họp ở phổi, ngoại bảo-hộ nơi biểu,
nội hành nơi lư, chu-lưu toàn-thân, khoảnh-khắc vô-gián,
xuất-nhập thăng-giáng, đêm ngày hữu thường, tại sao thường
bệnh nơi nhân-thể, kịp đến thất-t́nh giao-công, ngũ-chí
tịnh-phát, sai vậy thất-thường, thanh hoá ra trọc, lưu-hành
bị ngăn trở mà thành bất-thông, biểu mất hộ-vệ mà bất-hoà,
lư mất doanh-vệ mà bất-thuận, khí vốn thuộc dương, kịp thắng
ắt là hoả vậy, cái mà Hà-Gian gọi là: "Ngũ-chí quá cực, đều
là hoả". Cái mà Đan-khê gọi là 'khí hữu dư', ấy là hoả vậy,
nhân-thân có tông-khí, doanh-khí, vệ-khí, trung-khí,
nguyên-khí, vị-khí, xung-hoà-khí, thượng-thăng-khí, mà
tông-khí đặc-biệt làm chủ; đến khi bị bệnh, ắt là lănh-khí,
trệ-khí, thượng-khí, nghịch-khí, khí hư nơi biến-chứng vậy.
Khi vô-bệnh, nên bảo-dưỡng, hoà-thuận, lúc lâm bệnh, nên
thẩm xét là kinh nào, chứng nào, hàn, nhiệt, hư, thực, mà
bổ-tả.
Thuyết cuả Khang-tiết
Thiệu Khang-tiết nói: "Khí là bắt đầu cuả nguyên".
Từ thái-cực một vạch khai-thiên, kiền-nguyên nhất hanh, bắt
đầu cuả vạn-vật, hết thẩy đều nhờ cậy nơi đó, nhưng mà trước
khi h́nh-chất thành h́nh, chỉ có khí vậy, khí-cơ sơ-manh,
thực-sự khởi nơi Kiên-nguyên, sơ-linh nơi thái-cực, bởi
chưng nhân hanh cuả kiền-nguyên, trước khí sau h́nh vậy.
Thuyết cuả Dịch-truyện, Kiền-thoán
Thoán Thượng-truyện nói: "彖曰:大哉乾元,萬物資始,乃統天。Đại
tai kiền-nguyên, vạn-vật tư thủy, năi thống thiên = Lớn thay
kiền-nguyên, đầu mối muôn vật đều nhờ đó mà sinh ra, nên
thuộc cả về trời". Chữ nguyên ấy, xưa nói là thái-hoà,
nguyên-thần, nguyên-khí, nguyên-dương, đều chỉ điều ấy mà
nói. Nguyên tức nguyên cuả Nguyên-Hanh-Lợi-Trinh, gốc nghiă
là nguyên-đại vậy; nguyên có nghĩa cuả thủy. Dịch chỉ là
âm-dương, 64 quẻ, cũng chỉ là hai đại-tác-dụng cuả kiền với
khôn, cứng với mềm, nên Thoán-truyện ở quẻ Kiền xưng là
Kiền-nguyên. Thủy là bảo muôn vật nhờ vào kiền nguyên mà bắt
đầu vậy. Năi thống thiên: năi là tức, thống là gốc. Bảo
kiền-nguyên gốc ở trời vậy. Kiền Văn-ngôn XXX bảo: "與天地合其德. Dữ
thiên-điạ hợp kỳ đức = Cái đức cuả người cùng hợp với cái
đức cuả trời đất". Thống cũng tức là hợp vậy.
Thuyết cuả Hà-Hưu
Trong Công-Dương chú, Hà-Hưu nói: "Biến nhất mà là
nguyên, nguyên là khí vậy". Thoán Thượng-truyện nói:
"Phẩm-vật lưu-h́nh", "Các chính tính-mệnh", từ lưu-h́nh đến
thành-h́nh, từ vô-h́nh đến khởi hữu-h́nh. Văn-Tín-Quốc nói:
"Thiên-điạ hữu chính-khí, tạp-nhiên phú lưu-h́nh = Trời đất
có chính-khí, tạp-nhiên phú-bẩm lưu-h́nh".
Thuyết cuả Dịch Văn-ngôn
Nguyên là khí vậy, thiên-điạ là bắt đầu vậy, thống
thiên là khởi nơi vô-thủy tức thái-thủy, để dựng nên trước
trời đất. Văn-ngôn bảo là: "元者,善之長也. Nguyên
giả, thiện chi trưởng dă = nguyên là trùm mọi điều thiện".
Lại nói: "乾元者,始而亨者也。 Kiền
nguyên giả, thủy nhi hanh giả dă = Kiền-nguyên là mới đầu mà
thông-suốt vậy" (Kiền Văn-ngôn XXIII). Khôn Thoán nói: "至哉坤元。Chí
tai Khôn nguyên = Lớn vậy thay đạo Khôn, có đức nguyên". Là
nguyên cuả đất vậy, lớn mà là trời đất, nhỏ mà phi, tiềm,
động, thực, không có ǵ chẳng đầy đủ cái nguyên ấy, được nó
ắt sống, không được nó ắt chết, ngoảnh lại nguyên ấy
vô-thanh, vô-xú, vô-h́nh-chất có thể thấy được, như vậy, tuy
nguyên không thể thấy, mà nhân có thể thấy, mà nhân ngụ
trong sự-vật có thể thấy, chất-thể cuả quả thực cai trung,
gọi tên là nhân, mà nguyên có thể-hiện mà thửa dụng
hiển-hiện, chất-thể ấy trải qua lâu đời mà năng sinh-sôi,
thực dựa vào đức nhân trong nhân-nguyên. Sách vở thái-tây có
chép: người Ai-cập có đào được trong đất, lâu lâu phát-hiện
được luá mạch, trải qua lâu đời mà không bị hủy-hoại, nếu
lấy nó mà gieo giống, c̣n năng phát-dục tư-trưởng, không
khác ǵ hạt mới, bởi v́ thửa nguyên hẵng c̣n mà thôi, nếu
mất thửa nguyên, ắt hạt giống năm xưa, trồng lên cũng không
năng phát-dục, nên nói là vật, cái nào cũng có nguyên.
Thuyết cuả Nội-kinh
Về khí, Y-kinh chỉ nói thiết-yếu. Nội-kinh nói:
"Chư khi bí-uất đều thuộc phổi". Lại nói: "Vui ắt khí hoăn ,
giận ắt khí nghịch, buồn ắt khí tiêu, sợ ắt khí hạ, hàn ắt
khí thâu, nhiệt ắt khí tiết, kinh ắt khí loạn, mệt ắt khí
hao, suy-nghĩ ắt khí kết, chín khí ấy bất-đồng, bách-bệnh
thường sinh nơi khí vậy". Trong sách Bệnh-nguyên-giải, họ
Sào nói: "Chỗ da trong, da ngoài giáp nhau mở mà khí tiết,
giận ắt khí nghịch, quá quắt ắt thổ huyết, kịp khi ăn mà khí
nghịch lên vậy; vui ắt khí hoà, vinh-vệ hành thông lợi, nên
khí hoăn vậy, buồn ắt tâm hệ-cấp, phổi nở ra, là phổi căng
phồng, khiến thượng-tiêu bất-thông, vinh-vệ bất-tán,
nhiệt-khí tại bên trong, nên khó tiêu vậy; sợ ắt tinh-khước,
tinh-khước ắt thượng-tiêu đóng, đóng ắt khí quay trở lại,
quay trở lại, ắt hạ-tiêu sưng, cho nên khí bất-hành, hàn ắt
kinh-lạc kẹt (Án: hàn ắt mạch-quản thâu-súc, mà mạch-hậu bé
nhỏ), nên khí thâu-tụ vậy, nhiệt ắt chỗ da trong, da ngoài
giáp nhau khai-khiếu, vinh-vệ thông, nên mồ-hôi chẩy ra
nhiều vậy; lo ắt tâm không chỗ gởi, thần không chỗ quay về,
lo sợ không thể định, nên khí loạn vậy; mệt mỏi, ắt thoạt
đầu suyễn, mồ-hồi trong ngoài chẩy mạnh thêm, nên khí hao
vậy; suy nghĩ ắt thân-tâm có chỗ ngừng, khí bất lưu-hành,
nên khí kết vậy, chẩn thốn, khẩu mạch phục, trong ngực
nghịch-khí, là chư-khí thượng xung trong ngực, nên
thượng-khí diện phủ thũng bác tức, thửa mạch phù-đại,
bất-trị; thượng khí mạch sao-động mà thở gằn, thuộc phổi,
phổi phùng lên muốn làm phong-thủy, đổ mồ-hôi, khỏi bệnh;
mạch lớn ắt là khí, thửa mạch hư-ninh phục-nặc là sống,
lao-cường là chết; suyễn tức đê ngưỡng, thửa mạch trơn tru,
chân tay ấm là sống vậy, rít mà bốn đầu ngón tay, sảo
thần-kinh măn bố, lạnh là chết vậy, tâm-mạch súc-cấp là chết
vậy, bảo là thửa h́nh tổn-cố".
Huyết
1) Lấy bát-quái Thoán Tượng làm lệ:
Để nói về huyết: 'huyết-khí tuần-hoàn' là tác-dụng
sinh-lư cuả nhân-thể, hai thứ đó không năng thiên-phế, do
kiền là tṛn, ắt biết khôn là vuông, khảm là ẩn-phục, ắt
biết ly là quang-minh. Quẻ khôn cuả Dịch: "Hào thượng-lục:
long chiến vu dă, kỳ huyết huyền-hoàng = Như con rồng đánh
nhau ở nội, máu đen vàng chẩy lênh-láng". Tức do tượng khảm
xuất chấn, âm-dương phân mà huyết-khí định vậy, nên
thuyết-quái nói rơ chấn là huyền-hoàng. Thích nghiă quẻ Khôn
bảo là: "Quân –tử hoàng trung thông ư, chính vị cư thể, mỹ
tại kỳ trung, nhi sướng ư tứ chi = Người quân-tử lấy đức
trung như sắc vàng mà thấu suốt đến lẽ, chính ngôi ở thể
dưới, điều tốt đẹp nằm ở trong mà thông suốt ra chân tay"
(Khôn, Văn-ngôn 9, 10, 11).
Tiết này chỉ t́nh-cảnh phát-dụng lưu-hành cuả khí.
Hào thượng-lục quẻ Truân: "Thừa mă ban nhu, khấp huyết liên
như = Như thể cưỡi ngựa dùng-dằng vậy, khóc đau-đớn, nước
mắt chẩy ṛng ṛng vậy". Thượng-thể quẻ Truân là khảm, khảm
là huyết, hào ngũ không ứng, nên máu chẩy ngược lên óc mà
khóc vậy. Hạng-Vơ bị vây ở Cai-hạ, bi-ca khảng-khái, nước
mắt chẩy xuống. Hào-từ lục-tứ quẻ Nhu: "Nhu vu huyết, xuất
tự huyệt = Chờ ở chỗ giết hại, mà lại ra khỏi chỗ hăm", là
v́ hạ-hào cuả thượng-thể, lục-tứ hào-vị đều âm, âm hư nên có
tượng nhu, đă đạt thượng-hào cuả hạ-quái, nên nói là ra khỏi
vậy. Các quẻ nói đến huyết là do thủ tượng khảm, quẻ khảm
nước chẩy trong đất, không khác ǵ khí chạy trong kinh-lạc
con người.
2) Chu-lưu cuả huyết và khí:
Ôi! Huyết-khí vốn khai phải là hai vật, khí tụ
sinh huyết, huyết hoá thành khí, chư-lưu bách-mạch, doanh-vệ
một thân, không những khí không thể thấy được, mà lại c̣n
tiềm-hành nơi mạch-lạc, từ ngoài nh́n vào mà không thể thấy
được, phàm huyết thấy được đều là tử-huyết, phế-huyết, bản
thân huyết dời thửa kinh, bất khả phục-hồi, huyết đă ly
kinh, bất khả phục-hồi, gần giống với mồ-hôi phân-bí, tượng
quẻ khảm, nước chẩy trên mặt đất, cũng do khí vận-hành trong
thể-mô, phát-động lưu-hành. '易之為書也,不可遠﹔為道也,屢遷。變動不居,周流注虛,上下無常,剛柔相易,不可為曲要,唯變所適。=
Đạo Dịch thường đổi dời, biến-động chứ không ở yên, đi ṿng
quanh sáu cơi' (Hạ-Hệ VIII/1), tương-hợp với thiên-đạo.
Huyết-Khí Doanh-Vệ
Trong nhân-thân, khí là vệ, huyết là doanh. Kinh
nói: "Doanh là tinh-hoa cuả thủy-xác vậy, điều-hoà ngũ-tạng,
lệ-trần nơi lục-phủ, bèn năng nhập vào mạch vậy, sinh-hoá
nơi lá-lách, thống-lĩnh nơi tâm-tạng, nhận nơi gan, tuyên-bố
nơi phổi, thi-tiết nơi thận, kư-quán một thân, mắt được nó
mà năng nh́n, tai được nó mà năng nghe, tay được nó mà năng
đem đến, bàn tay đuợc nó mà năng cầm, chân được nó mà năng
bước, tạng đươc nó mà năng tiết nước, phủ được nó mà năng
khí, xuất nhập thăng-giáng, nhu-nhuận tuyên-thông, không ǵ
là chẳng do nó vậy, ăn uống hằng ngày thấm-nhuần nên năng âm
sinh dương trưởng, thủ chấp biến thành đỏ mà hoá ra huyết,
tưới vào mạch, sung-măn ắt thực, thiếu ắt rít, sinh-vượng ắt
chư kinh dựa vào mà dinh-dưỡng, biểu-kiệt ắt bách-mạch do đó
không-hư, huyết thịnh ắt h́nh thịnh, huyết nhược ắt h́nh
suy, huyết là khó thành mà dễ khuyết, khá bất cẩn-dưỡng hay
sao? Một khi âm-khí bị thương, chư biến lập-tức đến,
vơng-hành nơi trên ắt đổ máu cam, vơng hành nơi dưới ắt ruột
già mắc chứng phong, suy cạn bên trong, ắt hư-lao, khô héo
bên ngoài ắt tiêu-sấu, di-nhiệt bàng-quang ắt nịch-huyết, âm
hư dương bác băng trung, thấp chưng nhiệt ứ ắt huyết-lỵ,
hoả cực tựa nước, ắt mầu đen, nhỉệt thắng âm, ắt thành
sang-dương, thấp trệ nơi huyết, ắt là ung-chẩn (lên sởi),
ngưng sắc nơi b́-phu, ắt là lănh-tí (bị tê-liệt), xúc-tích
huyết ở trên, ắt là dễ quên, xúc-tích huyết ở đều thua lỗ
nơi niếp-dưỡng, biến thành bệnh-tật vậy".
Xem
Bài số
2
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|