|
HÁN
VIỆT DỊCH
SỬ
LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
KHÍ-HUYẾT
Khí
Nạp Tam-tiêu, Huyết Quy Bào-Lạc
(Đọc
Bài số
5)
Luận tổng-quy thất-biểu bát-lý:
Phù
(án nó không đủ, cất nó lên hữu dư, đổi tay ắt được), khâu
(phù nó thì có sức), bàng thực rung hư.
Hồng
(phù nó thì có sức), thực (phù mà trường-đại), huyền (số mà
cung huyền), khẩn (số mà lại huyền).
Hoạt
(số mà vi-lợi, như châu lược-phù).
Trầm
(án nó có dư, cất nó bất-túc, trùng thủ bèn được), vi (trầm
tự hữu, tự vô), phục (trầm mà chí cốt).
Nhược
(trầm mà vô-lực), trì (nhất hô, nhất hấp; tam chí khứ lai,
thậm trì), hoãn (trì tự hữu, tự vô).
Sáp
(trì mà cực tế, như mưa thấm vào cát).
Số
(một hô, một hấp, lục chí qua lại, rất chậm).
Thất-biểu bát-lý kể trên, tổng-cộng là 15 mạch, chỉ xem
ở nơi tứ-đạo.
Thất-biểu bát-lý:
Phù-kim, khấu-hoả, hoạt-thủy, thực-hoả, huyền-mộc, khẩn-mộc,
hồng-hoả (xem các dạng ấy rồi nhập-tâm), vi-thổ, trầm-thủy,
hoãn-thổ, sáp-kim, trì-thổ, phục-mộc, nhu-thủy, nhược-kim.
Các mạch trên, y bộ-vị mà chẩn. Sáu bộ mạch không y bản-vị
là bệnh-mạch vậy. Lại nói thất-biểu bát-lý, trục vị mà chẩn.
Bệnh tại tạng nào, phủ nào, chủ bệnh nào, theo kinh, chẳng
bệnh nào là không thuyên-giảm.
Tối-yếu Linh-khu-kinh:
Các
tuế nam-bắc nhị-chính, mỗi năm phân thiên-lệnh mà biến-đổi.
Đạo bắc-chính, thiên-lệnh hữu-thiên (ất, canh, đinh, nhâm,
bính, tân, mậu, quý là bắc-chính).
Kinh
nói: năm bắc-chính, thiên-lệnh hữu-thiên, quân-diện tại bắc.
Quân-lệnh tả-thiên, thần-diện tại nam. Thần-hoá hữu phục. Ắt
ứng tại đằng trước vậy. Tam-dương tại trên, ắt mạch hữu-xích
bất-ứng. Tam-dương tại dưới, mạch thủ thốn bất-ứng, âm-dương
trên dưới tương-giao mà không phản-biến vậy.
Năm
nam-chính, thiên-lệnh tả-thiên. Chú rằng: Năm nam-chính,
thiên-lệnh tả-thiên, quân-diện tại nam. Quân-lệnh hữu-thiên,
thần-diện tại bắc. Thần-hoá tả-phức, ắt ứng tại đằng sau
vậy. Tam âm ở trên. Mạch hữu-thốn bất-ứng. Tam-dương ở dưới,
mạch tả-xích bất-ứng, bèn là âm-dương thượng-hạ bất-giao, mà
ứng-biến tương-phản vậy.
Trời
đất là cha mẹ cuả biến-hoá. Âm-dương là đạo-lộ cuả
thăng-giáng.
Chú
rằng: Thiên-nguyên liệt-tượng, vận-khí phân-ty, là duyên-do
âm-dương hiển-thăng-giáng, là gốc trời đất sản-biến-hoá, là
bước đi cuả lục-khí phân doanh-khuy. Ngũ-vận hợp cung cuả
thái-thiếu, là lấy động-tĩnh tương-sinh, thuận-nghịch
giao-ứng, là gốc cuả sơ-chung thắng-phục, là chỉ-tiêu cuả
thái-quá, bất-cập. Năm giả-lệnh tí-ngọ, thiếu-âm tư-thiên,
thửa hoá-tiêu ắt nhiệt cư thửa vị vậy. Cho nên chứng-cớ cuả
thiếu-âm, thửa mạch hồng-đại mà tán. Bèn là chính-lệnh cuả
quân-hoả.
Âm-dương biến-hoá, thắng-phục dị-đồng, suy nguồn cuả lục-bộ,
liệt căn cuả tam-nguyên, nhân thửa khí biến, khả hậu
cát-hung.
Chú
rằng: âm-dương biến-hoá là gọi số-cực cuả âm-dương. Tức
biến-hoá sinh vậy. Tại sao? Sau đông-chí, từ thái-âm mà sinh
ra thiếu-dương. Thiếu-dương biến mà sinh ra dương-minh.
Dương-minh biến mà sinh ra thái-dương. Thái-dương biến mà
sinh ra quyết-âm. Quyết-âm biến mà sinh ra thiếu-âm.
Thiếu-âm biến mà sinh ra phức-sinh. Thái-âm để hợp
bản-nguyên cuả lục-bộ, tam-nguyên. Vận-ứng lục-khí trong tuế
thắng-phức để trang-điểm cho điềm cuả cát-hung.
Trời
đất thăng-giáng, âm-dương doanh-vận, ngũ-hành tương-sinh,
vạn-vật ứng thời.
Chú
rằng: thiên-khí hạ-giáng, điạ-khí thượng-thăng, nhị khí
giao-cảm mà sinh-thành vạn-vật vậy. Nhân dương-khí mà
phát-sinh, phức-thụ. Nhân âm-khí mà thâu-thành. Há chẳng
phải là công-lực cuả vận-độ sao? Mỗi mỗi bẩm ngũ-hành
tạo-hoá. Theo thửa chính-lệnh cuả bốn muà. Đều được đạo cuả
ứng-hô sinh-trưởng biến-hoá thâu-tàng.
Lục-khí ứng-biến, tạng-phủ ứng-truyền. Bệnh tùng 12 chi, ứng
nơi 10 can vậy. Nên ngày tí-ngọ thiếu-âm tư-thiên. Chú rằng:
tí là gốc, thuộc thận. Nó hoá hàn. Thửa bệnh yêu-cước đông.
Ngọ là tiêu, thuộc tâm. Thửa hoá nhiệt. Thửa bệnh lo-sợ
hồi-hợp. Ruột ứng thống vậy.
Ngày
sửu-mùi thái-âm tư-thiên, Chú rằng: sửu là gốc, thuộc phế.
Thửa hoá táo, thửa bệnh ho-hen. Khí cấp cơ nhiệt vậy. Mùi là
tiêu, thuộc tỳ. Thửa hoá thấp thửa bệnh suyễn-nghịch, nôn
nghẹn. Thể nặng, đại-tiện nồng-huyết.
Ngày dần-thân,
tướng hoả tư-thiên. Chú rằng: dần là gốc, thuộc tam-tiêu.
Thửa hoá viêm. Thửa bệnh phục-tụ kết-khí. Sai vậy. Thân là
tiêu. Thuộc đảm. Thửa hoá phong. Thửa bệnh ruỗi. Cửu khốn
bại (khốn-đốn) quyện-đãi vậy.
Ngày tỵ-hợi,
quyết-âm tư-thiên. Chú rằng: tỵ là gốc, thuộc tâm-bao-lạc.
Thửa hoá nhiệt. Thửa bệnh tâm-cách hung ưng bĩ-thống vậy.
Hợi là tiêu, thuộc can. Thửa hoá phong. Thửa bệnh mắt đỏ,
huyễn-trác, nhức đầu.
Ngày
thìn-tuất, thái-dương-âm tư-thiên. Chú rằng: thin là gốc,
thuộc ruột non. Thửa hoá nhiệt, thửa bệnh đau tim. Lưỡi
mạnh, rốn, bụng đau. Tuất là tiêu. Thuộc bàng-quang. Thửa
hoá hàn. Thửa bệnh đau lưng. Âm-nhương, thũng-trụy,
tiểu-tiện bất-lợi vậy.
Ngày mão-dậu,
dương-minh tư-thiên. Chú rằng: mão là gốc, thuộc ruột già.
Thửa hoá táo. Thửa đại-tiện bí-sáp. Sau nặng cân. Rốn-bụng
đau. Dậu là tiêu, thuộc vị. Thửa hoá thấp. Thửa bệnh
chi-tiết phiền-nhiệt. Thổ 吐bất-thực.
Ngũ-vận lục-khí
tương-thừa. Mệnh do tuế thiên-phù. Chú rằng: vận-hoá với
đồng-ứng nghiã là gọi đó là tương-thừa. Nên mệnh nói: năm
thiên-phù, giả-lệnh đinh. Năm hợi, mộc vận. Đinh thiếu-giác.
Ấy là quyết-âm tư-thiên. Khí-vận tư-vận các hội mộc-tượng,
nên gọi đấy là thiên-phù tuế-hội. Nếu với vị cuả lâm-vị,
chi-thần đồng-ứng là mệnh rằng tuế thái-ất thiên-phù vậy.
Giả-lệnh năm mậu-ngọ. Ngọ là thiếu-âm. Khí quân-hoả
tư-thiên. Mậu là hoả vậy! Với vận-khí tịnh-lâm. Vị đồng-hoá
vậy. Nên gọi đấy là thái-ất, tuế thiên-phù vậy. Lấy ngũ-vận
lục-khí cuả ứng-tuế phù-hợp-kỳ mà làm hội vậy. Như thế là
biến-ứng cuả ngũ-vận lục-khí. Từ tý đến tỵ, bèn là thủ
tam-âm tam-dương dụng-sự. Từ ngọ đến hợi là túc tam-âm
tam-dương dụng-sự vậy. Nên lục-khí tùy ngũ-vận đển hợp với
biến-động cuả cung thái-thiếu. Mà thửa thiên để chứng điềm
cuả cát-hung.
Mộc-hoả-kim-thủy, tuế cuả vận-hoá bắc-chính. Chú rằng: tuế
bắc-chính, bốn vận mộc-hoả-kim-thủy, đều thuộc bắc-chính,
quân–diện tại bắc, thần-diện tại nam. Khí tư-thiên để chú
rằng: tuế bắc-chính, bốn vận mộc-hoả-kim-thủy, đều thuộc
bắc-chính. Quân-diện tại bắc, thấn-diện tại nam, khá
tư-thiên để làm thủ-kinh. Từ ngày Đại-hàn trước Lập-xuân,
lấy khí tả-gian tại-tuyền làm ứng cuả sơ-khí.
Tuế tý-ngọ,
thiếu-âm tư-thiên. Chú rằng: thiếu-âm quân-hoả ở trên, khí
tư-thiên vậy. Thửa hoá nhiệt, ứng nơi tiêu. Hàn úng
thiên-bản vậy. Thửa trùng vũ. Sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian
thiên-khí. Thái-âm thấp-thổ ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí,
quyết-âm phong-mộc ứng-gian vậy. Dương-minh táo kim
tại-tuyền, tư điạ-khí. Thửa hoá táo ứng nơi tiêu vậy. Thấp
ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng giới. Sinh-số 4, thành-số 9.
Tà-gian điạ-khí, Thái-dương hàn-thủy ứng-gian. Hữu-gian
điạ-khí, thiếu-dương tướng-hoà ứng-gian đấy.
Tuế sửu-mùi,
thái-âm tư-thiên. Chú rằng: thái-âm thấp-thổ ở trên, khí
tư-thiên vậy. Thửa hoá thấp-thổ ở trên. Táo ứng thửa gốc.
Thửa trùng khoả. Sinh-số 5, thành-số 10. Tả-gian thiên-khí.
Thiếu dương tướng-hoả ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí, thiếu-âm
quân-hoả ứng-gian vậy. Thái-dương hàn-thủy tại-tuyền, tư
điạ-khí. Thửa hoá hàn ứng nơi tiêu vậy. Nhiệt ứng thửa gốc
vậy. Thửa trùng lân. Sinh-số 1 thành-số 6. Tà-gian điạ-khí,
quyết-âm phong-mộc ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, dương-minh
táo-kim ứng-gian. Tuế dần-thân, thiếu-dương tư-thiên. Chú
rằng: thiếu-dương tướng-hoả ở trên, khí tư-hiên vậy. Thửa
hoá viêm ứng nơi tiêu, phong ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng
vũ, sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian thiên-khí, thái-âm
thấp-thổ ứng-gian vậy. Quyết-âm phong-mộc tại-tuyền, tư
điạ-khí, thửa hoá phong ứng nơi trên. Nhiệt ứng thửa gốc.
Thửa trùng mao. Sinh-số 3, thành-số 8. Tả-gian điạ-khí,
thái-âm hàn-thủy ứng-gian.
Tuế mão-dậu,
dương-minh tư-thiên. Chú rằng: dương-minh táo-kim ở trên. Tư
thiên-khí. Thửa hoá táo ứng nơi tiêu. Thấp ứng thửa gốc.
Thửa trùng giới. Sinh-số 4, thành-số 9. Tả-gian thiên-khí,
thái-dương hàn-thủy ứng-gian. Hữu-gian thiếu-dương,
tướng-hoả ứng-gian vậy. Thiếu-âm quân-hoả tại-tuyền, tư
điạ-khí. Thửa hoá-nhiệt ứng nơi tiêu. Hàn ứng nơi gốc. Thửa
trùng vũ. Sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian điạ-khí, thái-âm
thấp-thổ ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, quyết-âm mộc ứng-gian
vậy.
Tuế thìn-tuất,
thái-dương tư-thiên. Chú rằng: thái-dương hàn-thủy ở trên,
tư thiên-khí vậy. Thửa hoá hàn ứng nơi tiêu. Nhiệt ứng thửa
gốc vậy. Thửa trùng lân. Sinh-số 1, thành-số vậy. Tả-gian
thiên-khí, quyết-âm phong-mộc ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí,
dương-minh táo-kim ứng-gian vậy. Thái-âm thấp-thổ tại-tuyền.
Tư điạ-khí. Thửa hoá thấp ứng nơi tiêu, táo ứng nơi gốc vậy.
Thửa trùng khoả. Sinh-số 5, thành-số 10 vậy. Tả-gian
điạ-khí, thiếu-dương tướng-hoả ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí,
thiếu-âm quân-hoả ứng-gian vậy.
Tuế tỵ-hợi,
quyết-âm tư-thiên. Chú rằng: quyết-âm phong-mộc ở trên, tư
thiên-khí vậy. Thửa hoá phong ứng nơi tiêu. Viêm ứng thửa
gốc vậy. Thửa trùng mao. Sinh-số 3, thành-số 8 vậy. Tả-gian
thiên-khí, thiếu-âm quân-hoả ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí,
thái-âm thấp-thổ ứng-gian vậy. Giả như xuân tam-nguyệt, chẩn
được mao mà phù. Hạ tam-nguyệt chết.
Quyết nói: án
đấy, tam-tiểu, tam-đại, hoặc tam-đại, tam-tiểu.
Giả như, tam nguyệt chẩn được mao phù nhi nhược. Thu
tam-nguyệt tử.
Quyết nói: án
đấy, vô-lực. Khẩn án vô-liễu.
Giả như, thu tam nguyệt chẩn được mao phù nhi số. Đông
tam-nguyệt tử.
Quyết nói: án đấy
thốn , dưới thốn không có gì. Ở dưới quan, dưới thốn không
có gì. Ở dưới thốn-xích.
Giả như, d0ông
tam nguyệt chẩn được mao phù nhi hoạt. Xuân tam-nguyệt tử.
Quyết nói: án
thốn quá quan, quá xích.
Thốn-khẩu thượng-tiệu-mạch:
Thốn-bộ-mạch phù,
chủ đầu phong mà nhãn-mục hư-phù. Thể nặng. Phong hàn đau
răng. Khấu nhãn tà.
Thốn-bộ-mạch
trầm, chủ khí hung mãn. Khái-thấu đàm. Khí suyễn cấp. Phiên
vị cách. Hung mãn bất-thực.
Thốn-bộ-mạch trì.
Chủ lãnh ẩu-thổ. Bĩ mãn phúc trướng. Thủy-cốc bất hoá.
Hư-hãn câu-cấp. Đông-thống bất dĩ.
Thốn-bộ-mạch số.
Chủ nhiệt thượng ung. Phiền táo yết can. Khách nhiệt
phiền-khát. Đầu đông khẩu sang.
Quan-bộ Trung-tiêu:
Quan-bộ-mạch phù.
Chủ phong. Lưỡng hiếp đông-thống. Bất năng cử-vận. Thân-thể
tứ chi đông-thống.
Quan-bộ-mạch
trầm. Chủ khí. Phúc mãn hư-minh. Tâm-phúc đông-thống.
Thượng-ha quan-cách. Bất tư ẩm-thực.
Quan-bộ-mạch trì.
Chủ phúc lãnh. Phích trướng đông. Du 游 tẩu
bất-định. Thích-thống phiên-vị. Thổ thực.
Quan-bộ-mạch số.
Chủ nhiệt.Bất tiện, bất thông, đại-tiện bế-kết. Phiền-khát
bất dĩ.
Xích-bộ Hạ-tiêu:
Xích-bộ-mạch phù.
Chủ yêu thống khoả thống. Thối tất lâm mộc. Túc hĩnh thũng
thống. Đại-tiện bất-lợi.
Xích-bộ-mạch
trầm. Chủ cước thũng-thống đông. Hạ trọng lâm-mộc. Tiểu-tiện
bất-lợi.
Xích-bộ-mạch trì.
Chủ tiểu-tiện cấp-thống. Ngoại-thận thiên-thống. Đại-tiện
tiết-tả. Tiểu-tiện phiền-số.
Xích-bộ-mạch số,
chủ tiểu-tiện bất thông. Đại-tiện bí-kết. Hoặc tác thận ung.
Phiền-khát bất chỉ.
Thử nguyên-kinh
lược xuất thử nhất đoạn 'Hoàng-đế vấn Kỳ-Bá',thượng-cổ hậu
nhất thiên.
Vị-trí cuả Ngũ-tạng Lục-phủ:
Ngũ-tạng là: tim,
gan, lá lách, phổi, thận. Lục-phủ là: ruột non, ruột già,
dạ-dầy (bao-tử), mật, tam-tiêu, bàng-quang. Phổi ở trên
cùng, là hoa-cái cuả chư-tạng. Hai buồng sáu lá. Chủ
tạng-phách. Tim ở dưới phổi. Thửa thể bán thùy, như hoa sen
chưa nở (?). Bên trên có 7 lỗ 3 cuống. Chủ tạng-thần. Dưói
tim là cách (hoàng-cách-mạc), dưới cách là dạ dầy, chủ
tạng-thủy cốc. Bên trái là ba lá gan, bên phải có bốn
lá gan. Chủ tạng-hồn. Mật ở trong phần ngắn cuả gan, có
tinh-trấp tam-hợp. Bên phải có lá lách. Chủ tạng-ý. Dưới
dạ-dầy có dư-chi 餘
肢.
Ruột già ở bên phải rốn gồm 46 khúc, chủ truyền thanh-tiện.
Dưới nhị-trường là rốn. Dưới rốn là bàng-quang chủ
tạng-nịch. Dưới đốt thứ 7 cuả xương sống là thận. Bên trái
là thận, chủ tạng-chí. Bên phải là mệnh-môn, chủ tạng-tinh.
Nên gọi là tạng-phủ vậy.
Cơ-quan cuả Ngũ-tạng, Lục-phủ:
Tim
là cơ-quan quân-chủ. Thần-minh xuất. Cơ-quan tương-truyền.
Trị-tiết xuất. Gan là cơ-quan tướng-quân. Mưu-lược xuất. Lá
lách là cơ-quan thương-lẫm.Ngũ-vị xuất, Thận là cơ-quan
tác-cường, Kỹ-xảo xuất. Mật là cơ-quan trung-chính.
Quyết-đoán xuất. Dạ dày là quan thần-sứ. Hỉ-lạc xuất. Ruột
non là quan thu-thịnh. Thủy-hoá xuất. Ruột già là quan
truyền-đạo. Hoá-vật xuất. Tam-tiêu là quan quyết-độc.
Thủy-đạo xuất. Bàng-quang là quan châu-đô. Tân-dịch tàng.
Khí-hoá ắt năng xuất. Phàm 11 quan ấy không được tương-thất.
Chủ minh ắt hạ-an. Lấy dưỡng-sinh ắt thọ. Chủ bất-minh ắt 11
quan nguy. Sứ-đạo bế,ắt bất-thông. Lấy dưỡng-sinh ấy, lấy
làm thiên-hạ vậy. Thửa tông đại-nguy. Giới đấy! Giới đấy!
Nên nói: tim là chủ-thể một thân, căn-bản cuả vạn-sự.
Hậu cuả Ngũ-tạng:
Mắt là ngoại-hầu cuả gan. Khí thông nơi mắt. Mắt hoà ắt biện
trắng đen vậy.
Mũi
là ngoại-hầu cuả phổ. Khí thông nơi mũi. Mũi hoà ắt biết
thơm thối vậy,
Lưỡi là ngoại-hầu cuả tim. Khí thông nơi lưỡi. Lưỡi hoà ắt
biết ngũ-vị vậy.
Miệng là ngoại-hầu cuả lá lách. Khí thông nơi miệng. Miệng
hoà ắt biết cốc-vị vậy.
Tai là ngoại-hầu cuả thận. Khí thông nơi tai. Tai hoà ắt
biết thanh-âm vậy.
Luận-bình:
Âm-dương biến-hoá bách thiên ban,
Tửu-bệnh hoa sầu tối hảo khan.
Chi-hạ sưu-tầm tu tử-tế,
Sa khan thông-hiểu tác thần-tiên.
Như thần tạo-hoá kiến thiên niên,
Bất-dụng tiền-ngôn cập hậu-ngôn.
Lưỡng tự chi trung phân hoạ-phúc,
Nhược nhân tường-tế cổ-kim truyền.
Thái-tố Mạch-quyết Tổng-luận:
Mạch thái-tố là
bình-luận khinh-thanh trọng-trọc. Khinh-thanh là dương.
Trọng-trọc là âm, là nghèo hèn. Nam-tử lấy can-mộc-bộ làm
chủ, để quyết công-danh cao thấp. Nữ-tử lấy phế-kim đoài vị
làm chủ, để quyết phúc-đức. Lại như khinh-thanh, như thể lấy
tay mò ngọc, thuần-túy ôn-nhuận. Ứng chỉ phân-minh.Lục-mạch
bất-khắc. Như nguồn lưu-trường, không dám đoạn-tục. Từ khi
có tiểu-tật, trực thanh bất-trọc. Chủ là nhân thụ tính
xung-hoà, tri-thức minh-mẫn, lôc vi cao-trạc. Đó là mạch
khinh-thanh. Trọng-trọc là ứng-chỉ bất-minh, như thể triệt
cát khô. Mãn chỉ đều luận. Trước lớn, sau bé. Tức-số
hỗn-tạp. Khắc quy bản thân. Là mạch trọng-trọc.
Bát-quái luận sơ-chủ, mạt-chủ:
Kiền 1, đoài 2,
ly 3, chấn 4, tốn 5, khảm 6, cấn 7, khôn 8 (bát-quái
tiên-thiên).
Đại-để, nam-tử
lấy can-mộc thượng-trầm thủ chân-quái, để xem thửa sơ-niên.
Trung thủ để xem thửa trung-chủ. Hữu-quan tỳ-mạch để đoán
mạt-chủ. Trầm thủ mới đúng. Nữ-tử lấy phế-bộ trâm-thủ, để
quyết sơ-niên. Trung-thủ để đoán trung-chủ. Tỳ-bộ trầm-thủ
để đoán mạt-chủ. Lại như thượng phùng số 1 mà ngừng, tức thị
việc cuả quẻ kiền, khí-số trước 25 tuổi, số 2 mà
ngừng, tức thị hành-vận cuả quẻ đoài. Kỳ dư phỏng theo đó.
Đại-để,
nam-tử nên hành khí-vận đông-nam, tức thị các quẻ ly, tốn
chấn, khôn. Lấy thửa khí-vận tương-sinh, không khắc, không
hối-trệ.Nữ-tử nên hành tây-bắc.là các quẻ kiên, đoài, khảm
vậy. Thủ thửa khí thâu-liễm làm hợp thửa nghi. Ví bằng
nam-tử được vận tây-bắc là hối-trệ, là việc hay có
thành-bại. Nữ-tử bắt chước theo đó. Mạch xuất-thân, để đoán
mạch đức-tính. Tâm-mạch thượng-trầm thủ. Như ứng-chỉ được số
1 mà ngưng, tức thị quẻ kiền, là xuất-thân. Bởi chưng hai
quẻ kiền-đoài,là tính ôn-hoà, khoan-đại. Hung-khảm
bình-thản. Quẻ chấn ắt tâm trực khẩu quyết, không nhận
khích-xúc. Hai quẻ ly-tốn là tính hung-khâm quang-tế (hết
giản). Hai quẻ khảm-cấn, là tính trầm-chấp, ngân-độc
bất-thường, là tính tâm người hay làm lợi mình hại người.
Quẻ khôn là tính trì-hoãn, có lòng đới-vật tế-hãn. Lấy điều
ấy tham-đoán, quyết không tham-sai. Người béo khoẻ nên có
mạch trầm-tế. Án đấy chí cốt, người gầy, mạch phù-đại
ứng-chỉ. Chí cân-cốt là hợp-độ. Người giầu-sang, mạch nên
trầm-tĩnh, không nên tháo-cấp. Hạ-chỉ chí cốt mới ứng. Trong
trầm-tĩnh, sắc-tạng như châu phân-minh, là mạch nhập-cách.
Nữ-tử xuất-thân,
can-bộ trầm-tĩnh, thủ quái-số để đoán tính-hạnh, kiêm
tâm-tính suy-luận. Quyết nói:
Hiệu mạch chi pháp yếu tâm hiền,
Nhược hoàn án-bản tắc đồ-nhiên.
Đại-phàm số mạch bình chí số,
Biểu-lý tường-quan đoán cận-nguyên.
Như thần biến-hoá bách thiên niên,
Bất-luận tiền-thiên cập hâu-thiên.
Lưỡbg thủ chi trung phân tạo-hoá,
Nhược nhân ngộ đắc ứng như truyền.
Tri nam-nữ luận:
7 x 7
= 49 cộng với số tháng cuả thai, cộng thêm tuổi người mẹ, +
17. Nam nhất nữ song-toàn. Thượng-bán-niên, sản cách
niên-số; hạ-bán-niên, dĩ kim tuế-số luận.
Lục-khí:
Lập-xuân đến
xuân-phân là sơ-khí.Thanh-minh đến tiểu-mãn là nhị-khí.
Mang-chủng đến đại-thử là tam-khí. Lập-thu đến thu-phân là
tứ-khí. Hàn-lộ đến tiểu-tuyết là ngũ-khí. Đại-tuyết đến
đại-hàn là lục-khí.
Ngũ-quân:
(Giáp-kỷ thổ-vận,
ất-canh kim-vận, bính-tân thủy-vận, đinh-nhâm mộc-vận,
mậu-quý hoả-vận) (Tam-âm tam-dương kim-thổ-hoả gọi là
ngũ-căn hoả-mộc-thủy).
Thái-cực-đồ: khuyết.
Trời đất là một
thái-cực.Nhân-thân là một trời đất. Ôi! Ngũ-hành trong
khoảng trời đất, từ trời 1 sinh thủy, thuỷ sinh mộc.mộc sinh
hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim phục-sinh thủy.
Ngũ-hành thuận-bố, tam-âm tam-dương, sở dĩ gọi là ngũ-căn.
Đến như Thái-huyền, cái gọi là mộc-hoả-thổ-kim-thủy, lấy mộc
ở trên, thủy ở dưới, là cái người ta gọi là tương-sinh
vô-cùng, biểu-số Hà-đồ. Cái Nghiêu-điển gọi là
thủy-hoả-kim-mộc-thổ,
mỗi mỗi ngũ-hành tương-khắc, Lạc-thư tương-khắc mà thành.
Nhân-thân cũng vậy. Con người bẩm khí trời đất mà sinh, nên
khí ngũ-hành ẩn nơi ngũ-tạng, thấy nơi lục-phủ. Từ thận thủy
sinh can mộc, can mộc sinh tâm quân-hoả, tâm quân-hoả sinh
tam-tiêu tướng-hoả, tướng-hoả sinh tỳ thổ, tỳ thổ sinh phế
kim, phế kim phục-sinh thận thủy, lấy tương-sinh mà thành.
Lại như thyủy sinh mộc, tức thị thủy là mẹ mà mộc là con.
Mộc phục-sinh là mộc thụ thiết-khí, nên thủy nộ mà khắc hoả.
Chính là cái ta gọi là con thụ thiết-khí, mẹ bèn lực tranh.
Hoả lại sinh thổ, là hoả làm mẹ, thổ làm con. Thổ thấy hoả
bị thủy khắc, nên nổi giận mà khắc thủy, chính là cái ta gọi
là mẹ bị quỷ-thương. Con chạy lại dùng sức mà cứu mẹ.
Tương-sinh tương-khắc, triển-chuyển vô-cùng, đó là thái-cực
cuả nhân-thân vậy. Nên người giỏi xem mạch tái-lập công cuả
tạo-hoá, xảo-thể chính cuả âm-dương, cùng vi cuả nhất-động,
cứu-thất cuả vạn-vật. Tuy mạch phân lục-bộ, biến-ứng
vạn-thù. Y-gia phân thành thất-biểu, bát-lý, cửu-đạo
đẳng-mạch. Tương-khảo tham-luận, thâm-thiết thâm minh. Sách
vở cả trăm ngàn nhà, không những chỉ muôn ngàn lời mà thôi
đâu. Đầy đủ tươm tất. Đồ có hoặc sót, nhưng mà nghiên-cứu
thủ-dụng, hỗ-tương có đắc-thất, suất vị, tận thửa cơ-yếu, mà
được bên ngoài cuả thái-thủy thái-tố mà không biết là trong
khoảng trời đất, ngũ-hành cuả chúng-nhân, thửa khí tán tại
nhân-thân. Ngũ-hành cuả một người, thửa khí chuyên. Trong
khoảng một cử-chỉ, mà biết người ấy bình-sinh là người như
thế nào, đương thủ dụng nào. Giầu-sang, nghèo hèn, thọ-yểu,
chính-tà, như biện trắng đen, như số 1, số 2. Không biết
cha-mẹ, vợ con sống chết ra sao. Thân-tâm không năng ngộ.
Không gì là chẳng biết. Điều đó là nhờ lý. Ôi Mạch thái-tố
lấy tâm làm chủ mệnh. Tâm là vua vậy, là chủ cuả một
người.Lấy ruột non làm thiên-di, bởi chưng là chí. Điều mà
tâm biết, bẩm lệnh mà hành, cát hung hối-lẫn sinh ra. Lấy
đảm làm phúc-đức. Đảm là phúc-đức cuả can-khí,
thu-dụng cuả tâm. Tâm lấy can làm quan-lộc. Can được thủy
sinh,là mẹ cuả tâm. Được thiên-nồng. Lấy phế làm phụ-mẫu,
bởi chưng phế là nguyệt-bột, tượng cuả phụ-mẫu, cái mà
sơ-khí sở chủ. Ruột già là vợ con, bởi chưng ruột già là
kế-đô; được khí cuả phế, phối với sơ-khí. Vị là tài-bạch,
bởi chưng vị được dư-khí cuả tỳ. Tỳ là điền-trạch. Mà
tỳ-khísở dĩ tư-dưỡng vạn-vật vậy. Tam-tiêu là lộc-mã.
Tướng-hoả thụ mệnh nơi tâm. Lấy cái đó mà cầu, không gì là
chẳng đỗng-triệt. Lại thêm, tâm-mạch thuộc hoả-tính mà thâu
nó không đầy 9, mà chỉ dùng có 8. Kiền 1, đoài 2, ly 3, chấn
4, tốn 5, khảm 6, cấn 7, khôn 8, ắt lại quay về kiền 1. Con
người gặp nó, ắt là số kháng-dưong. Cô-bần vô-tỷ. Còn nói
khí-số gì nữa.
Nhân chủ
cát-hung, chủ khí-số 15 tuổi trở về trước. Thửa thế phù-hồng
như số 1 mà ngừng. Đại-nhân được nó, chủ tính cao-minh,
cương-kiện, thuần-nhất không thôi. Tiểu-nhân được nó, ắt chủ
tính khinh-tháo, thường có tật minh-sát mà thôi, không mất
là kẻ sĩ cảnh-trực. Số 2 mà ngừng ắt chủ tính hoà-duyệt.
Tâm-sự bình-thản, tôn-kính người khác, mà người khác cũng
thường kính lại. Đạt ắt y phương truyền, cùng mà hội-nhan,
thuần nơi tâm người quân-tử. Không có tơ-hào nhân–dục. Số 3
mà ngừng, ắt chủ quyết làm thông-minh cơ-mẫn, sảng-lệ
quang-tễ, đãi nhân tiếp-vật. Khác tận kỳ tình, đoan làm kẻ
sĩ văn-chương. Người trung-nồng. Số 4 mà ngừng, ắt chủ tính
táo-bạo. Không năng dung vật, trực-gia nghiêm-túc. Thành-tín
đối với người khác. Tâm-tính xử-sự đắc nghi. Không có
tâm-điạ ích-kỷ hại nhân. Cũng chủ thông-minh văn-chương. Rốt
cuộc, không miễn được hỉ-nộ thất-thường. Số 5 mà ngừng, chủ
tính thông-minh cơ-biến, đa-học, đa năng, du-thuyết
biện-cấp, triệt-hợp tung-hoành. Nhưng xử-tính bất-định, ở
khoảng giữa quân-tử và tiểu-nhân, lớn lên nơi bôn-cạnh, dễ
dao-động, không phải là kẻ sĩ cửu-lưu, ắt là bọn du-hiệp. Số
6 mà ngừng, gian-ác, khúc-khủyu, siểm-trá, tà-nịnh, tạo ác
hưng báng, phản đạo bội đức, nhỏ thì là tặc-nhân, lớn ắt
nghịch trời tối-gian-ác. Số 7 mà ngừng, chủ tính ngoan-ngu
vô trí, khôn phân-biệt nếp tẻ. Là dân cầy ruộng, hay phu
khan vác, hoặc hữu dõng vô-mưu, là cái mà ta gọi là ngu-phụ.
Số 8 mà ngừng chủ tính trì-hoãn ôn-hoà. Dung vật nạp-uế.
Lân-cô niên-quả, khinh tài hiếu thí. Lạc đạo an bần. Không
tị-nạnh với người khác, Người khác cũng không khi dễ mình.
Không phải là kẻ sĩ trưởng-giả, ắt là người ẩn-dật sơn-lâm.
Nếu lại như châu minh-tinh, ắt phúc-đức thâm nồng, biểu-hiệu
cuả tiêu-dao nhân-cực, vượt khỏi bọn người trần-tục.
Đảm-mạch chủ khí-số khoảng tuổi 15-25, thửa
thể phù-huyền. Nếu là lúc hạ-chỉ, tiện như thấu-lệ
tranh-huyền. Đại-tiểu huyền-câu, phù mà ứng chỉ. Phân-minh
bất-tạp, thọ trên 50. Lộc tam-công, nhà tổ-phụ để lại, năm
40 tuổi là ngừng. Chức-vị đến thủ-lệnh, đến năm 20 tuổi là
ngừng. Chức tham-tá, hoặc khí-số chưa kịp, nhưng được
đại-thể minh-tinh, cũng chủ bọn nhiệm một chức. Nếu khí-số
hỗn-tạp, lớn nhỏ không đều, ắt trong vòng 10 năm, không có
chức-phận công-danh, hoặc là bôn-dũng bất-định, có quan mất
chức. Thường-nhân chủ có việc quan-tụng.
Can-mạch chủ
khí-số trước 15 tuổi. Đương-số cho thân mình là tối
quan-trọng. Thưa thể trầm-huyền, trên dưới 45 tuổi là ngừng.
Vị đến tam-công, nếu vi-sáp, làm đến tể-tướng, tất cũng
gian-nan, đến trên dưới 30 tuổi cũng ngừng. Vị đến thủ-lĩnh,
trên dưới 20 tuổi cũng ngừng, ắt tạp-chức. Tán-sáp cũng vậy.
Đại-tiểu minh-tịnh, qua lại như châu lưu-lợi, chủ quyền
phong-hiến, kiêm phế-mạch hoạt, nắm quyền sinh-sát trong
tay. Nếu tam-bộ đều huyền, mà cập số, tức chủ cửu-đỉnh, uy
trấn một phương. Ngôi đến tướng-soái, chưỏng sinh-tử
kiến-tiết khaio-quan. Cát sĩ phong hầu, chí-số bất-cập, cũng
có ứng thiên phu trường vạn phu ứng, hoặc giả bôn-dũng.
Lục-bộ đều huyền, tâm ứng khảm đến, ắt là quân tặc, đồ-hình
thích-phối. Thêm vào lục-bộ đều khắc, ắt chủ chết chém phân
thây, nếu tán-sa ứng-chỉ bất-minh, ắt chủ là người bần-tiện,
hạ-tiện vậy.
Tỳ-vị mạch là
khí-số sau 25 tuổi hoặc vãn-niên.Thửa thể vi-hoãn, hưởng thọ
trên 50 tuổi là thượng-phú, trên 30 tuổi là trung-phú. Dưới
25 tuổi là hạ-phú. Thửa chí-số bất-cập nhưng ứng-chỉ
phân-minh, vãn-niên cũng chủ khang-dụ. Nếu-tích phù mà
ứng-chỉ, có tiền không có ruộng. Trầm mà ứng-chỉ, có ruộng
mà không có tiền. Phù-trầm đều ứng, là điền-tài ưu-dụ. Nếu
thấy hồng-hoãn là chủ thụ tổ-nghiệp. Phù mà sáp là chủ được
thê-tài, hoặc thê-tử đắc-lực thành gia, nhưng chỉ là kiến
lậu-ngân. Quyền xuất từ trong. Nếu thấy vi-hoạt, ắt là có
con phá-gia. Vợ dâm-dục, bản thân ngận-tích hiếu-dâm,
không năng tự-chấn. Nếu ứng-chỉ chợt số chợt trì, chợt lớn
chợt nhỏ, chung thân bần-khốn. Nếu thấy bôn-tả, ắt
phá-thương tổ-nghiệp, lạo-đảo vô-thành. Mà bôn-ba, đi ăn
xin, vô liêm-sỉ.
Mạch đại-trường,
thửa thể vi mà ngắn, ứng-chỉ minh-tịnh, ắt chủ thê hiền tử
quý. Lại bị sáu mạch đều hắc, ắt suốt đời không con. Mệnh
cô-độc, hoặc là thầy tu, sư ni. Nếu thấy hoạt-mạch, ắt chủ
dưỡng-tử thành gia, quan điệt đãi lão.
Thể
phế-mạch, ngắn mà sáp, nếu ứng-chỉ phân-minh, chí-số
trường-viễn, lại đới vi-hoãn, không phải là tứ thân câu
khánh, ắt là phụ-mẫu song-toàn, tân-thích thủy chí
hoan, lạc thái chi ngu, nhân-sinh tối nan. Tạo-hoá rất keo
lận. Tan-dũn gm-ngũ số mà ngừng, trước khắc mẹ, bôn-dũng
vô-định, thiếu-niên mồ-côi cả mẹ lẫn cha. Hoãn-hoạt
thường-trực, suốt đời không nhờ được người khác họ.
Mạch tả-xích trầm
mà hoạt, mạch hũu-xích hồng mà hoạt, thuả ban-sơ được khí
thiên-điạ phụ-mẫu. Sở đãi nồng-hậu, giầu mà thọ. Sở đắc
bạc-nhược, súc mà yểu. Đó là số nhất-định không thay đổi
được. Thức-giả tường-quan thẩm-sát, lấy tả-hữu để định
đại-thể cuả thọ-yểu, rồi sau mới lấy tả-hữu định tuổi thọ.
Ắt vạn lần không sai một. Nếu lưỡng-xích đều thất,
ngoại-thận bất-túc, hữu-xích bôn-dũng, chủ ngã tím xương
hoặc bị tai nạn, hoặc bị kẻ trộm lấy tài-vật. Tả-xích
bôn-dũng, chợt sơ, chợt gấp, dâm-dục khinh-cuồng. Lục-mạch
ấy chuyên chủ định số ngũ-hành. Tóm lại, tâm-mạch
hồng-huyền, tam-tiêu hồng-hoãn, là quân-thần khánh-hội, có
làm chức-phận mà thăng-quan tiến-chức, không quan-chức chủ
kỳ-vận 奇運.
Nếu tâm-mạch hồng-hoạt, tam-tiêu hồng-huyền, là quân-thần
thất-sở, chủ dị-thị 異是 vậy.
Lục-mạch đều thụ phụ-mẫu khí, khác với con người ta.
Lục-mạch tử quy mẫu phúc, chủ đắc tử như hội mẫn, can cổ
hưng gia 干蠱興家.
Trong lục-mạch sợ nhất là đại-mạch 代脈.
Nhất mạch thụ đại, nhất tạng thụ tuyệt. Như tỳ-bộ vốn không
hoãn-thể, mà trái lại bị huyền-trường phù-đại. Lấy một lúc
thụ-khắc, có thể quyết-đoán là đến ngày tận-số. Nếu tứ-quý
du niên, mỗi mỗi lấy bản-bộ suy-đoán, được mẫu-khí là khá
cầu công-danh. Được tử-khí là khá cầu tài-bạch. Điều đó nên
biết. Người suy-đoán giỏi vạn lần khiông sai một.
Mạch du-niên 游年脈:
Tâm thiếu-âm
quân-hoả, thửa thể nếu hồng mà phù, ắt chính phát-tài. Nếu
hồng-hoãn ắt là tỳ-mạch. Quân tâm-bộ 君心部 là
thụ mẫu-khí. Chủ thiếu-niên thông-minh, hoặc thụ phụ-mẫu ấm
làm quan-chức, hoặc là thần-đồng. Trước 15 tuổi thông-minh
được khen. Nếu thấy hoạt-tật, chủ thiếu-niên có tật tâm-hư,
hoặc hạ-nguyên bất-cố. Nếu nơi thận-mạch thấy xúc, chẩn
chuyển-triền ắt biết năm nào bị, năm nào khỏi. Nếu thấy
sáp-mạch tất chết. Là tâm-phúc tặc-nhân. Nếu hoạt-tật
vô-thường, ắt tâm-kinh bị bệnh. Nếu chung-thân hoạt-sáp, ắt
là kim nhập hoả-cung. Người chủ tuyệt, là cô-độc, bần-tiện.
Nếu phu-dũng, chủ cuồng-võng. Bôn hạ chủ thất-tâm.
Tán-loạn chủ ưu-nghi. Chợt có, chợt không, chủ thần-quỷ.
Thịt giật chủ tâm-phong. Thịt ngoan, chủ ân-cần ngu-lỗ, sáp
chủ khô nhục táo, hoạt chủ tư-nhuận. Nếu triều-thủy sơ đến
là thụ bệnh. Xung-quyết chủ vong dương. Vi-tế chủ tác sự bất
thành, ngôn-ngữ kiển-sáp, trước nhỏ sau lớn, ắt chủ bất ngôn
kỳ sự thành. Trước lớn sau nhỏ, ắt tác-sự hữu thủy vô chung.
Ngân nhanh ắt tính hoà, chậm ắt tính khoan-thai. Vi ắt tính
hoà. Loạn ắt tính sai vạy. Lớn ắt vô-thường. Nhỏ ắt vô-khí.
Lớn nên hồng-hoãn làm chủ. Mạch phân lưỡng-lộ, ắt chạy cung
thiên-di, thường chủ tại ngoại. Nếu phù mà phân, ắt chủ
trục-hậu. Nếu vô-mạch mà ứng nơi sau, là thần-tiên, Phật-tổ
vậy.
Ngũ-vận sở hoá:
Giáp-kỷ thổ. Ất-canh kim. Bính-tân thủy. Đinh-nhâm mộc.
Mậu-quý hoả.
Thập-nhi chi là lục-khí:
(Hoặc gọi là lục-khí sở thuộc điạ-chi). Tý-ngọ thiếu-âm
quân-hoả. Mão-dậu dương-minh táo kim. Thìn-tuất thái-dương
hàn thủy. Sửu-mùi thái-âm thấp thổ. Dần-thân thiếu-dương
tướng-hoả. Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc.
Ngũ-vận sở hoá:
Giáp-kỷ thổ. Ât-canh kim. Bính-tân thủy. Đinh-nhâm mộc.
Mậu-quý hoả.
Lấy năm độn tháng:
Giáp-kỷ chi niên bính tác thủ.
Ất-canh chi tuế mậu vi đầu.
Bính-tân chi tuế tầm canh thượng.
Đinh-nhâm nhâm-dần thuận hành-lưu.
Duy hữu mậu-quý hà phương phát?
Giáp-dần chi thượng hảo suy-cầu.
Lấy ngày độn giờ:
Giáp-kỷ hoàn sinh giáp.
Ất-canh bính tác sơ.
Bính-tân tầm mậu-tý.
Đinh-nhâm canh-tý cư.
Mậu-quý hà phương phát?
Nhâm-tý thị chân-đồ.
Ngũ-tạng sở thuộc hành niên nguyệt-khí nhật thời:
Giáp đảm, ất can, bính tiểu-trường,
Đinh tâm, mậu vị, kỷ tỳ hành.
Canh thuộc đại-trường, tân thuộc phế,
Nhâm nãi bàng-quang, quý thận đương.
Chu thiên phù tuế hội:
Ất, dậu: kim; binh, tuất: thủy; đinh, hợi:
mộc; mậu, tý: hoả; ất, mão: kim; bính, thìn: thủy; đinh, tỵ:
mộc; mậu, ngọ: hoả; kỷ, mùi: thổ; kỷ, sửu: thổ.
Tả-thủ mạch:
Hoả: tả thốn mạch
vi-hồng; (tâm, tiểu-trường) hoả như hữu trạm-mạch, thị hữu
xích-mạch. Thuộc thủy. Thị thủy khắc hoả. Viết bệnh. Mộc
tả-quan mạch vi-huyền (can đảm). Mộc như hữu sáp-mạch, thị
hữu-thốn-mạch, thuộc kim. Thị kim khắc mộc. Viết bệnh. Thủy,
tả-xích-mạch vi-trầm (thận, bàng-quang). Thủy như hữu
hoãn-mạch, thị hữu-quan-mạch, thuộc thổ. Thị thổ khắc thủy.
Viết bệnh.
Hữu-thủ mạch:
Kim, hữu-thủ-mạch
vi-sáp. (Phế, đại-trường) Kim như có vi-mạch, là
tả-thốn-mạch. hoả khắc kim. Viết bệnh. Thổ có quan-mạch
vi-hoãn. (Tỳ-vị) thổ như có huyền-mạch, là tả-quan-mạch. Mộc
khắc thổ. Viết bệnh. Hoả có xích-mạch vi-số. (Mệnh-môn,
tam-tiêu). Hoả như có trầm-trì-mạch là tả-xích-mạch. Thủy
khắc hoả. Viết bệnh. Tả-thốn-mạch phù, tâm hữu dư. Trầm-trì,
bất-túc. Hữu-thốn-mạch phù, phế hữu dư. Trầm-trì, bất-túc.
Hữu-quan-mạch phù, tỳ hữu dư, trầm-trì bất-túc.
Hữu-xích-mạch phù-huyền là mệnh-môn, tam-tiêu hữu dư,
trầm-trì, bất-túc.
Thập-nhị kinh:
Tả-thủ-mạch (tâm,
tiểu-trường) hoả. Quan-mạch (can-đảm), mộc. Xích-mạch (thận,
bàng-quang) thủy. Hữu-thủ-mạch (phế, đại-trường), kim.
Quan-mạch (tỳ-vị) thổ. Xích-mạch (mệnh-môn, tam-tiêu), thủy.
Tả-tâm-mạch vi-hồng, viết bình. Hồng đa, vị-khí thiểu, viết
bệnh. Như mạch trầm, là thận, tâm, can vậy. Phu khắc thê.
Hồng thậm, dùng hoàng-liên giải-độc thang chủ đấy. Trầm-trì
uống thanh-tâm liên-tử chủ đấy.
Tả-quan phù-mạch vi-huyền. Viết bình. Huyền đa vị-khí thiểu.
Viết bệnh. Như hữu sáp-mạch là kim khắc mộc. Hữu dư
huyền-khẩn. Dùng đào-nhân thừa khí-thang chủ nó. Không đủ,
dùng mộc-hương hoá-đới thang chủ nó.
Tả-xích mạch trầm viết bình. Trầm đa vị-khí thiểu viết bệnh.
Như có hoãn-mạch là thổ khắc thủy. Hữu dư, tự-thận-hoàn gia
hoàng-bá tri-mẫu tả nó. Không đủ, dùng phụ-tử
tứ-nghịch-thang ôn nó. Thận vô hữu dư, đa bất-túc.
Hữu-thốn mạch vi-sáp, viết bình. Sáp đa, vị-khí thiểu, viết
bệnh. Như có mạch bên trong là tâm-hoả tà-thương. Hữu dư,
dùng tri-mẫu dịch-linh thang tả nó. Không đủ, dùng mạch-môn
đông-ẩm tử bổ nó.
Hữu-quan-mạch vi-hoãn viết bình. Hoãn đa, vị-khí thiểu, viết
bệnh. Như có huyền-mạch là can mộc khắc thổ. Hữu dư, dùng
điều-vị thừa-khí thang hạ nó. Không đủ, dùng, dùng
trị-trung thang bổ nó.
Hữu-xích mạch vi-số, viết bình. Số đa, vị-khí thiểu, viết
bệnh. Hữu dư, dùng lương-cách-tán
chủ nó. Không đủ, dùng tử-nghịch thang bổ nó.
Ngũ-hành tương-sinh:
Kim sinh thủy,
thủy sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim.
Ngũ-hành tương-khắc:
Kim
khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hoả, hoả
khắc kim.
Hà-đồ sinh-thành số:
Trời 1 sinh thủy,
đất 6 thành nó. Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành nó. Trời 3 sinh
mộc, đất 8 thành nó. Đất 4 sinh kim, trời 9 thành nó. Trời 5
sinh thổ, đất 10 thành nó. Thủy 1-6, hoả 2-7, mộc 3-8, kim
4-9, thổ 5-10.
Giả như chẩn
tâm-mạch, được số 1, số 6 mà ngừng là thủy khắc hoả. Nếu gặp
bính-tân cùng thìn-tuất là chết, bạch-thời là chết. Kỳ dư,
phỏng theo đó.
Can–mạch chẩn
được số 4, số 9 mà ngừng là kim khắc mộc, gặp ngày giờ
ất-canh, mão-dậu là chết.
Chẩn tỳ-mạch được
số 3, số 8 mà ngừng, là mộc khắc thổ. Gặp ngày giờ
đinh-nhâm, tỵ-hợi là chết.
Chẩn phế-mạch,
được số 2, số 7 mà ngừng, là hoả khắc kim. Gặp ngày giờ
mậu-quý, tí-ngọ là chết.
Chẩn thận-mạch,
được số 5, số 10 mà ngừng, là thổ khắc thủy, gặp ngày giờ
giáp-kỷ, sửu-mùi là chết.
Thập-can ngũ-hành tổng-quát:
Đông-phương
giáp-ất mộc, nam-phương bính-đinh hoả, tây-phương canh-tân
kim, bắc-phương nhâm-qúy thủy, trung-ương mậu-kỷ thổ.
Thập-can ngũ-vận sở hoá ca:
Giáp-kỷ hoá thổ ất-canh kim (câm),
Đinh-nhâm hoá mộc tận thành lâm,
Bính-tân hoá thủy thao-thao khứ,
Mậu-quý nam-phương hoá diễm-xâm.
Lục-khí sở thuộc can chi:
Tí-ngọ thiếu-âm
quân-hoả thiên 天.
Mão-dậu dương-minh táo kim. Thìn-tuất thái-dương hàn thủy.
Sửu-mùi thái-âm thấp thổ. Dần-thân thiếu-dương tướng-hoả.
Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc.
Phép đoán bệnh theo năm tháng ngày giờ gia-lâm cùng
thiên-phù vận-khí:
Ất dậu kim (ất
canh hoá kim, mão-dậu dương-minh táo kim).
Bính tuất thủy
(bính tân hoá thủy, thin tuất thái-dương hàn thủy).
Đinh hợi mộc
(đinh nhâm hoá mộc, kỷ hợi quyết-âm phong mộc). Mậu tý hoả
(mậu quý hoá hoả. Tý-ngọ thiếu-âm quân-hoả). Kỷ sửu thổ
(giáp kỷ hoá thổ, sửu mùi thái-âm thấp thổ).
Ất-mão kim
(ất-canh hoá kim, mão-dậu dậu dương-minh táo kim). Bình-thìn
thủy. (Bính-tân hoá thủy.Thìn-tuất thái-dương hàn thủy).
Đinh-tỵ mộc.
(Đinh-nhâm hoá thủy. Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc).
Mậu-ngọ hoả.
(Mậu-quý hoá hoả. Tý-ngọ thiếu-âm quân-hoả). Kỷ-mùi thổ
(Giáp-kỷ hoá thổ. Sửu-mùi thái-âm thấp thổ).
Phép đoán bệnh theo năm tháng ngày giờ:
Lục-mạch
Chưởng-đồ 六脈掌圖:
khuyết.
Giả như năm
bính-tuất, gặp ngày giờ bính-tuất, bính-thìn, lại lo
tâm-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua
khỏi ngày này khả trị.
Giả như năm
ất-dậu, gặp ngày giờ ất-dậu, ất-mão, lại lo can-kinh thụ
bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này
khả trị.
Giả như năm
đinh-hợi, gặp ngày giờ đinh-hợi, đinh-tỵ, lại lo tỳ-kinh thụ
bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này
khả trị.
Giả như năm
mậu-ngọ, lại gặp ngày giờ mậu-ngọ, mậu-tý, lại lo phế-kinh
thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày
này khả trị.
Giả như năm
kỷ-sửu, gặp ngày giờ kỷ-sửu, kỷ-mùi, lại lo thận-kinh thụ
bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này
khả trị.
Thương-hàn lục-kinh truyền-biến nhật-pháp:
Ngày thứ nhất,
thái-dương-kinh, đầu nhức, thân nóng. Phép đang chẩy mồ-hôi.
Tiên-niên hữu dư, song giải-tán. Tiên-niên bất-túc, nhân
tham bại-độc-ẩm. Giả như năm ất-mùi, thấp-thổ tư-thiên,
thìn-tuất thái-âm hàn-thủy tại tuyền, sang năm song
giải-tán, lại càng thêm mạch hư-thực phù-tán. Số mà lớn, gọi
là hữu dư. Viết thực. Số đoản mà vi, gọi là bất-túc. Viết
hư.
Ngày thứ hai
dương-minh-kinh đuơng hoà-điện trung-tham. Thêm tứ-linh-tán.
Ngày thứ ba,
thiếu-dương-kinh, tiểu-sài-hồ thang.
Ngày thứ tư,
thái-âm-kinh thần-đan.
Ngày thứ năm,
thiếu-âm-kinh, miệng khô lưỡi táo.
Ngày thứ sáu,
quyết-âm-kinh dương-hạ.
Ngày thứ bẩy,
lục-kinh truyền-biến, lạo-phục thái-dương. Lại lấy hãn-hạ.
Như mạch-phù
khẩn, đại-phiền lại ra mồ-hôi, như mạch trầm mà trì, án-hạ
khẩn-thức. Lại hạ.
Như
hữu-quan-mạch, là mạch dương-minh vị thổ, phù-khẩn mà hồng.
Đầu mặt vi-hồng, đoán ngày đó phát-ban.
Phân nam-nữ mạch:
Nam-tử xích-mạch
thường yếu (khí hữu dư là vô-sự). Nữ-tử xích-mạch thường
thịnh (máu hữu dư là vô-sự).
Kinh nói: nữ-nhân
trái thế xem lưng (nữ cần xích thịnh mà thốn nhược). Gọi là
'phản thử'. Nam cần thốn thịnh mà xích nhược). Gọi là 'phản
thử'. Đoán bệnh cũng vậy.
Đồng-nữ mạch,
xích nhược mà thốn thịnh. Đồng-tử mạch, xích thịnh mà thốn
nhược.
Nam-tử, nếu
xích-mạch lớn mà phù, tên là hư, tất tẩu tinh.
Nữ-tử nếu
xích-mạch phù mà lớn, hoặc trầm mà vi, tất kinh-mạch
bất-điều, mạch bán hư lậu huyết. Thêm có dựng-mạch,
xích-mạch khẩn-thực mà lớn đến quân-điều 勻調,
tức thị đàn-bà có mang. Lại thêm thổ-nghịch, là ba tháng.
Tả-thủ xích-mạch phù đại, đoán là nam. Hữu-thủ xích-mạch
phù-đại, đoán là nữ.
Y-gia nạn-kinh huyền-diệu:
Kinh nói: can thanh
tượng mộc. Phế bạch tượng kim. Nay can được thủy mà trầm.
Ôi! Mộc được thủy mà phù, kim được thủy mà trầm. Nay bèn mộc
trầm kim phù, ý-nghiã như thế nào? Nhưng can không phải là
thuần-mộc, là ất-dậu. Nhu-tông cuả canh. Lớn thì nói âm với
dương. Nhỏ thì nói chồng với vợ. Thích nghiã thửa vi-dương,
mà hút thửa vi-khí. Thửa ý ưa kim. Lại hành âm-đạo nhiều.
Nên nay can được thủy mà trầm, là phế, không là thuần kim,
là tân-tỵ, nhu-tông cuả bính. Lớn thì nói âm với dương. Nhỏ
thì nói chồng với vợ. Thích nghiã thửa vi-âm. Hôn mà
tựu-hoả. Thửa ý ưa hoả. Phản hành dương-đạo đa. Nên nay phổi
được thủy mà phù. Phế nhiệt mà trầm. Tại sao? Biết là tâm
đang quy canh, ất đương nạp-giáp.
Xem
Bài số 7
trong ĐẶC SAN XUÂN TẾT
ĐINH DẬU 2017
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975
www.ninh-hoa.com |
|