www.ninh-hoa.com



 

Trở về d_bb  ĐHKH

 

Trở về Trang Tác Giả

 

Hán Việt Dịch S Lược 

Giáo Sư
Nguyễn Hữu Quang

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trở về Trang Tác Giả

 

Main Menu

 
 


HÁN VIỆT DỊCH S LƯỢC

GS Nguyễn Hữu Quang

Nguyên Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975

 

 

 

 

KHÍ-HUYẾT

 Khí Nạp Tam-tiêu, Huyết Quy Bào-Lạc

 


 

 (Đọc Bài số 5)

 

Luận tổng-quy thất-biểu bát-lý:

          Phù (án nó không đủ, cất nó lên hữu dư, đổi tay ắt được), khâu (phù nó thì có sức), bàng thực rung hư.

          Hồng (phù nó thì có sức), thực (phù mà trường-đại), huyền (số mà cung huyền), khẩn (số mà lại huyền).

          Hoạt (số mà vi-lợi, như châu lược-phù).

          Trầm (án nó có dư, cất nó bất-túc, trùng thủ bèn được), vi (trầm tự hữu, tự vô), phục (trầm mà chí cốt).

          Nhược (trầm mà vô-lực), trì (nhất hô, nhất hấp; tam chí khứ lai, thậm trì), hoãn (trì tự hữu, tự vô).

          Sáp (trì mà cực tế, như mưa thấm vào cát).

          Số (một hô, một hấp, lục chí qua lại, rất chậm).

     Thất-biểu bát-lý kể trên, tổng-cộng là 15 mạch, chỉ xem ở nơi tứ-đạo.

Thất-biểu bát-lý:

          Phù-kim, khấu-hoả, hoạt-thủy, thực-hoả, huyền-mộc, khẩn-mộc, hồng-hoả (xem các dạng ấy rồi nhập-tâm), vi-thổ, trầm-thủy, hoãn-thổ, sáp-kim, trì-thổ, phục-mộc, nhu-thủy, nhược-kim. Các mạch trên, y bộ-vị mà chẩn. Sáu bộ mạch không y bản-vị là bệnh-mạch vậy. Lại nói thất-biểu bát-lý, trục vị mà chẩn. Bệnh tại tạng nào, phủ nào, chủ bệnh nào, theo kinh, chẳng bệnh nào là không thuyên-giảm. 

Tối-yếu Linh-khu-kinh:

          Các tuế nam-bắc nhị-chính, mỗi năm phân thiên-lệnh mà biến-đổi. Đạo bắc-chính, thiên-lệnh hữu-thiên (ất, canh, đinh, nhâm, bính, tân, mậu, quý là bắc-chính).

          Kinh nói: năm bắc-chính, thiên-lệnh hữu-thiên, quân-diện tại bắc. Quân-lệnh tả-thiên, thần-diện tại nam. Thần-hoá hữu phục. Ắt ứng tại đằng trước vậy. Tam-dương tại trên, ắt mạch hữu-xích bất-ứng. Tam-dương tại dưới, mạch thủ thốn bất-ứng, âm-dương trên dưới tương-giao mà không phản-biến vậy.

          Năm nam-chính, thiên-lệnh tả-thiên. Chú rằng: Năm nam-chính, thiên-lệnh tả-thiên, quân-diện tại nam. Quân-lệnh hữu-thiên, thần-diện tại bắc. Thần-hoá tả-phức, ắt ứng tại đằng sau vậy. Tam âm ở trên. Mạch hữu-thốn bất-ứng. Tam-dương ở dưới, mạch tả-xích bất-ứng, bèn là âm-dương thượng-hạ bất-giao, mà ứng-biến tương-phản vậy.

          Trời đất là cha mẹ cuả biến-hoá. Âm-dương là đạo-lộ cuả thăng-giáng.

          Chú rằng: Thiên-nguyên liệt-tượng, vận-khí phân-ty, là duyên-do âm-dương hiển-thăng-giáng, là gốc trời đất sản-biến-hoá, là bước đi cuả lục-khí phân doanh-khuy. Ngũ-vận hợp cung cuả thái-thiếu, là lấy động-tĩnh tương-sinh, thuận-nghịch giao-ứng, là gốc cuả sơ-chung thắng-phục, là chỉ-tiêu cuả thái-quá, bất-cập. Năm giả-lệnh tí-ngọ, thiếu-âm tư-thiên, thửa hoá-tiêu ắt nhiệt cư thửa vị vậy. Cho nên chứng-cớ cuả thiếu-âm, thửa mạch hồng-đại mà tán. Bèn là chính-lệnh cuả quân-hoả.

          Âm-dương biến-hoá, thắng-phục dị-đồng, suy nguồn cuả lục-bộ, liệt căn cuả tam-nguyên, nhân thửa khí biến, khả hậu cát-hung.

          Chú rằng: âm-dương biến-hoá là gọi số-cực cuả âm-dương. Tức biến-hoá sinh vậy. Tại sao? Sau đông-chí, từ thái-âm mà sinh ra thiếu-dương. Thiếu-dương biến mà sinh ra dương-minh. Dương-minh biến mà sinh ra thái-dương. Thái-dương biến mà sinh ra quyết-âm. Quyết-âm biến mà sinh ra thiếu-âm. Thiếu-âm biến mà sinh ra phức-sinh. Thái-âm để hợp bản-nguyên cuả lục-bộ, tam-nguyên. Vận-ứng lục-khí trong tuế thắng-phức để trang-điểm cho điềm cuả cát-hung.

          Trời đất thăng-giáng, âm-dương doanh-vận, ngũ-hành tương-sinh, vạn-vật ứng thời.

          Chú rằng: thiên-khí hạ-giáng, điạ-khí thượng-thăng, nhị khí giao-cảm mà sinh-thành vạn-vật vậy. Nhân dương-khí mà phát-sinh, phức-thụ. Nhân âm-khí mà thâu-thành. Há chẳng phải là công-lực cuả vận-độ sao? Mỗi mỗi bẩm ngũ-hành tạo-hoá. Theo thửa chính-lệnh cuả bốn muà. Đều được đạo cuả ứng-hô sinh-trưởng biến-hoá thâu-tàng.

          Lục-khí ứng-biến, tạng-phủ ứng-truyền. Bệnh tùng 12 chi, ứng nơi 10 can vậy. Nên ngày tí-ngọ thiếu-âm tư-thiên. Chú rằng: tí là gốc, thuộc thận. Nó hoá hàn. Thửa bệnh yêu-cước đông. Ngọ là tiêu, thuộc tâm. Thửa hoá nhiệt. Thửa bệnh lo-sợ hồi-hợp. Ruột ứng thống vậy.

         Ngày sửu-mùi thái-âm tư-thiên, Chú rằng: sửu là gốc, thuộc phế. Thửa hoá táo, thửa bệnh ho-hen. Khí cấp cơ nhiệt vậy. Mùi là tiêu, thuộc tỳ. Thửa hoá thấp thửa bệnh suyễn-nghịch, nôn nghẹn. Thể nặng, đại-tiện nồng-huyết.

        Ngày dần-thân, tướng hoả tư-thiên. Chú rằng: dần là gốc, thuộc tam-tiêu. Thửa hoá viêm. Thửa bệnh phục-tụ kết-khí. Sai vậy. Thân là tiêu. Thuộc đảm. Thửa hoá phong. Thửa bệnh ruỗi. Cửu khốn bại (khốn-đốn) quyện-đãi vậy.

        Ngày tỵ-hợi, quyết-âm tư-thiên. Chú rằng: tỵ là gốc, thuộc tâm-bao-lạc. Thửa hoá nhiệt. Thửa bệnh tâm-cách hung ưng bĩ-thống vậy. Hợi là tiêu, thuộc can. Thửa hoá phong. Thửa bệnh mắt đỏ, huyễn-trác, nhức đầu.

          Ngày thìn-tuất, thái-dương-âm tư-thiên. Chú rằng: thin là gốc, thuộc ruột non. Thửa hoá nhiệt, thửa bệnh đau tim. Lưỡi mạnh, rốn, bụng đau. Tuất là tiêu. Thuộc bàng-quang. Thửa hoá hàn. Thửa bệnh đau lưng. Âm-nhương, thũng-trụy, tiểu-tiện bất-lợi vậy.

        Ngày mão-dậu, dương-minh tư-thiên. Chú rằng: mão là gốc, thuộc ruột già. Thửa hoá táo. Thửa đại-tiện bí-sáp. Sau nặng cân. Rốn-bụng đau. Dậu là tiêu, thuộc vị. Thửa hoá thấp. Thửa bệnh chi-tiết phiền-nhiệt. Thổ bất-thực.

       Ngũ-vận lục-khí tương-thừa. Mệnh do tuế thiên-phù. Chú rằng: vận-hoá với đồng-ứng nghiã là gọi đó là tương-thừa. Nên mệnh nói: năm thiên-phù, giả-lệnh đinh. Năm hợi, mộc vận. Đinh thiếu-giác. Ấy là quyết-âm tư-thiên. Khí-vận tư-vận các hội mộc-tượng, nên gọi đấy là thiên-phù tuế-hội. Nếu với vị cuả lâm-vị, chi-thần đồng-ứng là mệnh rằng tuế thái-ất thiên-phù vậy. Giả-lệnh năm mậu-ngọ. Ngọ là thiếu-âm. Khí quân-hoả tư-thiên. Mậu là hoả vậy! Với vận-khí tịnh-lâm. Vị đồng-hoá vậy. Nên gọi đấy là thái-ất, tuế thiên-phù vậy. Lấy ngũ-vận lục-khí cuả ứng-tuế phù-hợp-kỳ mà làm hội vậy. Như thế là biến-ứng cuả ngũ-vận lục-khí. Từ tý đến tỵ, bèn là thủ tam-âm tam-dương dụng-sự. Từ ngọ đến hợi là túc tam-âm tam-dương dụng-sự vậy. Nên lục-khí tùy ngũ-vận đển hợp với biến-động cuả cung thái-thiếu. Mà thửa thiên để chứng điềm cuả cát-hung.

          Mộc-hoả-kim-thủy, tuế cuả vận-hoá bắc-chính. Chú rằng: tuế bắc-chính, bốn vận mộc-hoả-kim-thủy, đều thuộc bắc-chính, quân–diện tại bắc, thần-diện tại nam. Khí tư-thiên để chú rằng: tuế bắc-chính, bốn vận mộc-hoả-kim-thủy, đều thuộc bắc-chính. Quân-diện tại bắc, thấn-diện tại nam, khá tư-thiên để làm thủ-kinh. Từ ngày Đại-hàn trước Lập-xuân, lấy khí tả-gian tại-tuyền làm ứng cuả sơ-khí.

         Tuế tý-ngọ, thiếu-âm tư-thiên. Chú rằng: thiếu-âm quân-hoả ở trên, khí tư-thiên vậy. Thửa hoá nhiệt, ứng nơi tiêu. Hàn úng thiên-bản vậy. Thửa trùng vũ. Sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian thiên-khí. Thái-âm thấp-thổ ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí, quyết-âm phong-mộc ứng-gian vậy. Dương-minh táo kim tại-tuyền, tư điạ-khí. Thửa hoá táo ứng nơi tiêu vậy. Thấp ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng giới. Sinh-số 4, thành-số 9. Tà-gian điạ-khí, Thái-dương hàn-thủy ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, thiếu-dương tướng-hoà ứng-gian đấy.

        Tuế sửu-mùi, thái-âm tư-thiên. Chú rằng: thái-âm thấp-thổ ở trên, khí tư-thiên vậy. Thửa hoá thấp-thổ ở trên. Táo ứng thửa gốc. Thửa trùng khoả. Sinh-số 5, thành-số 10. Tả-gian thiên-khí. Thiếu dương tướng-hoả ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí, thiếu-âm quân-hoả ứng-gian vậy. Thái-dương hàn-thủy tại-tuyền, tư điạ-khí. Thửa hoá hàn ứng nơi tiêu vậy. Nhiệt ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng lân. Sinh-số 1 thành-số 6. Tà-gian điạ-khí, quyết-âm phong-mộc ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, dương-minh táo-kim ứng-gian. Tuế dần-thân, thiếu-dương tư-thiên. Chú rằng: thiếu-dương tướng-hoả ở trên, khí tư-hiên vậy. Thửa hoá viêm ứng nơi tiêu, phong ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng vũ, sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian thiên-khí, thái-âm thấp-thổ ứng-gian vậy. Quyết-âm phong-mộc tại-tuyền, tư điạ-khí, thửa hoá phong ứng nơi trên. Nhiệt ứng thửa gốc. Thửa trùng mao. Sinh-số 3, thành-số 8. Tả-gian điạ-khí, thái-âm hàn-thủy ứng-gian.

        Tuế mão-dậu, dương-minh tư-thiên. Chú rằng: dương-minh táo-kim ở trên. Tư thiên-khí. Thửa hoá táo ứng nơi tiêu. Thấp ứng thửa gốc. Thửa trùng giới. Sinh-số 4, thành-số 9. Tả-gian thiên-khí, thái-dương hàn-thủy ứng-gian. Hữu-gian thiếu-dương, tướng-hoả ứng-gian vậy. Thiếu-âm quân-hoả tại-tuyền, tư điạ-khí. Thửa hoá-nhiệt ứng nơi tiêu. Hàn ứng nơi gốc. Thửa trùng vũ. Sinh-số 2, thành-số 7. Tả-gian điạ-khí, thái-âm thấp-thổ ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, quyết-âm mộc ứng-gian vậy.

        Tuế thìn-tuất, thái-dương tư-thiên. Chú rằng: thái-dương hàn-thủy ở trên, tư thiên-khí vậy. Thửa hoá hàn ứng nơi tiêu. Nhiệt ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng lân. Sinh-số 1, thành-số vậy. Tả-gian thiên-khí, quyết-âm phong-mộc ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí, dương-minh táo-kim ứng-gian vậy. Thái-âm thấp-thổ tại-tuyền. Tư điạ-khí. Thửa hoá thấp ứng nơi tiêu, táo ứng nơi gốc vậy. Thửa trùng khoả. Sinh-số 5, thành-số 10 vậy. Tả-gian điạ-khí, thiếu-dương tướng-hoả ứng-gian. Hữu-gian điạ-khí, thiếu-âm quân-hoả ứng-gian vậy.

        Tuế tỵ-hợi, quyết-âm tư-thiên. Chú rằng: quyết-âm phong-mộc ở trên, tư thiên-khí vậy. Thửa hoá phong ứng nơi tiêu. Viêm ứng thửa gốc vậy. Thửa trùng mao. Sinh-số 3, thành-số 8 vậy. Tả-gian thiên-khí, thiếu-âm quân-hoả ứng-gian. Hữu-gian thiên-khí, thái-âm thấp-thổ ứng-gian vậy. Giả như xuân tam-nguyệt, chẩn được mao mà phù. Hạ tam-nguyệt chết.

        Quyết nói: án đấy, tam-tiểu, tam-đại, hoặc tam-đại, tam-tiểu.

     Giả như, tam nguyệt chẩn được mao phù nhi nhược. Thu tam-nguyệt tử.

        Quyết nói: án đấy, vô-lực. Khẩn án vô-liễu.

   Giả như, thu tam nguyệt chẩn được mao phù nhi số. Đông tam-nguyệt tử.

        Quyết nói: án đấy thốn , dưới thốn không có gì. Ở dưới quan, dưới thốn không có gì. Ở dưới thốn-xích.

        Giả như, d0ông tam nguyệt chẩn được mao phù nhi hoạt. Xuân tam-nguyệt tử.

        Quyết nói: án thốn quá quan, quá xích. 

Thốn-khẩu thượng-tiệu-mạch:

        Thốn-bộ-mạch phù, chủ đầu phong mà nhãn-mục hư-phù. Thể nặng. Phong hàn đau răng. Khấu nhãn tà.

        Thốn-bộ-mạch trầm, chủ khí hung mãn. Khái-thấu đàm. Khí suyễn cấp. Phiên vị cách. Hung mãn bất-thực.

        Thốn-bộ-mạch trì. Chủ lãnh ẩu-thổ. Bĩ mãn phúc trướng. Thủy-cốc bất hoá. Hư-hãn  câu-cấp. Đông-thống bất dĩ.

        Thốn-bộ-mạch số. Chủ nhiệt  thượng ung. Phiền táo yết can. Khách nhiệt phiền-khát. Đầu đông khẩu sang. 

Quan-bộ Trung-tiêu:

        Quan-bộ-mạch phù. Chủ phong. Lưỡng hiếp đông-thống. Bất năng cử-vận. Thân-thể tứ chi đông-thống.

        Quan-bộ-mạch trầm. Chủ khí. Phúc mãn hư-minh. Tâm-phúc đông-thống. Thượng-ha quan-cách. Bất tư ẩm-thực.

        Quan-bộ-mạch trì. Chủ phúc lãnh. Phích trướng đông. Du  tẩu bất-định. Thích-thống phiên-vị. Thổ thực.

        Quan-bộ-mạch số. Chủ nhiệt.Bất tiện, bất thông, đại-tiện bế-kết. Phiền-khát bất dĩ. 

Xích-bộ Hạ-tiêu:

        Xích-bộ-mạch phù. Chủ yêu thống khoả thống. Thối tất lâm mộc. Túc hĩnh thũng thống. Đại-tiện bất-lợi.

        Xích-bộ-mạch trầm. Chủ cước thũng-thống đông. Hạ trọng lâm-mộc. Tiểu-tiện bất-lợi.

        Xích-bộ-mạch trì. Chủ tiểu-tiện cấp-thống. Ngoại-thận thiên-thống. Đại-tiện tiết-tả. Tiểu-tiện phiền-số.

        Xích-bộ-mạch số, chủ tiểu-tiện bất thông. Đại-tiện bí-kết. Hoặc tác thận ung. Phiền-khát bất chỉ.

        Thử nguyên-kinh lược xuất thử nhất đoạn 'Hoàng-đế vấn Kỳ-Bá',thượng-cổ hậu nhất thiên. 

Vị-trí cuả Ngũ-tạng Lục-phủ:

        Ngũ-tạng là: tim, gan, lá lách, phổi, thận. Lục-phủ là: ruột non, ruột già, dạ-dầy (bao-tử), mật, tam-tiêu, bàng-quang. Phổi ở trên cùng, là hoa-cái cuả chư-tạng. Hai buồng sáu lá. Chủ tạng-phách. Tim ở dưới phổi. Thửa thể bán thùy, như hoa sen chưa nở (?). Bên trên có 7 lỗ 3 cuống. Chủ tạng-thần. Dưói tim là cách (hoàng-cách-mạc), dưới cách là dạ dầy, chủ tạng-thủy cốc. Bên  trái là ba lá gan, bên phải có bốn lá gan. Chủ tạng-hồn. Mật ở trong phần ngắn cuả gan, có tinh-trấp tam-hợp. Bên phải có lá lách. Chủ tạng-ý. Dưới dạ-dầy có dư-chi 餘 肢. Ruột già ở bên phải rốn gồm 46 khúc, chủ truyền thanh-tiện. Dưới nhị-trường là rốn. Dưới rốn là bàng-quang chủ tạng-nịch. Dưới đốt thứ 7 cuả xương sống là thận. Bên trái là thận, chủ tạng-chí. Bên phải là mệnh-môn, chủ tạng-tinh. Nên gọi là tạng-phủ vậy. 

Cơ-quan cuả Ngũ-tạng, Lục-phủ:

          Tim là cơ-quan quân-chủ. Thần-minh xuất. Cơ-quan tương-truyền. Trị-tiết xuất. Gan là cơ-quan tướng-quân. Mưu-lược xuất. Lá lách là cơ-quan thương-lẫm.Ngũ-vị xuất, Thận là cơ-quan tác-cường, Kỹ-xảo xuất. Mật là cơ-quan trung-chính. Quyết-đoán xuất. Dạ dày là quan thần-sứ. Hỉ-lạc xuất. Ruột non là quan thu-thịnh. Thủy-hoá xuất. Ruột già là quan truyền-đạo. Hoá-vật xuất. Tam-tiêu là quan quyết-độc. Thủy-đạo xuất. Bàng-quang là quan châu-đô. Tân-dịch tàng. Khí-hoá ắt năng xuất. Phàm 11 quan ấy không được tương-thất. Chủ minh ắt hạ-an. Lấy dưỡng-sinh ắt thọ. Chủ bất-minh ắt 11 quan nguy. Sứ-đạo bế,ắt bất-thông. Lấy dưỡng-sinh ấy, lấy làm thiên-hạ vậy. Thửa tông đại-nguy. Giới đấy! Giới đấy! Nên nói: tim là chủ-thể một thân, căn-bản cuả vạn-sự. 

Hậu cuả Ngũ-tạng:

Mắt là ngoại-hầu cuả gan. Khí thông nơi mắt. Mắt hoà ắt biện trắng đen vậy.

  Mũi là ngoại-hầu cuả phổ. Khí thông nơi mũi. Mũi hoà ắt biết thơm thối vậy,

  Lưỡi là ngoại-hầu cuả tim. Khí thông nơi lưỡi. Lưỡi hoà ắt biết ngũ-vị vậy.

 Miệng là ngoại-hầu cuả lá lách. Khí thông nơi miệng. Miệng hoà ắt biết cốc-vị vậy.

 Tai là ngoại-hầu cuả thận. Khí thông nơi tai. Tai hoà ắt biết thanh-âm vậy.

Luận-bình:

Âm-dương biến-hoá bách thiên ban,

Tửu-bệnh hoa sầu tối hảo khan.

Chi-hạ sưu-tầm tu tử-tế,

Sa khan  thông-hiểu tác thần-tiên.

 

Như thần tạo-hoá kiến thiên niên,

Bất-dụng tiền-ngôn cập hậu-ngôn.

Lưỡng tự chi trung phân hoạ-phúc,

Nhược nhân tường-tế cổ-kim truyền. 

Thái-tố Mạch-quyết Tổng-luận:

        Mạch thái-tố là bình-luận khinh-thanh trọng-trọc. Khinh-thanh là dương. Trọng-trọc là âm, là nghèo hèn. Nam-tử lấy can-mộc-bộ làm chủ, để quyết công-danh cao thấp. Nữ-tử lấy phế-kim đoài vị làm chủ, để quyết phúc-đức. Lại như khinh-thanh, như thể lấy tay mò ngọc, thuần-túy ôn-nhuận. Ứng chỉ phân-minh.Lục-mạch bất-khắc. Như nguồn lưu-trường, không dám đoạn-tục. Từ khi có tiểu-tật, trực thanh bất-trọc. Chủ là nhân thụ tính xung-hoà, tri-thức minh-mẫn, lôc vi cao-trạc. Đó là mạch khinh-thanh. Trọng-trọc là ứng-chỉ bất-minh, như thể triệt cát khô. Mãn chỉ đều luận. Trước lớn, sau bé. Tức-số hỗn-tạp. Khắc quy bản thân. Là mạch trọng-trọc.

Bát-quái luận sơ-chủ, mạt-chủ:

        Kiền 1, đoài 2, ly 3, chấn 4, tốn 5, khảm 6, cấn 7, khôn 8 (bát-quái tiên-thiên).

        Đại-để, nam-tử lấy can-mộc thượng-trầm thủ chân-quái, để xem thửa sơ-niên. Trung thủ để xem thửa trung-chủ. Hữu-quan tỳ-mạch để đoán mạt-chủ. Trầm thủ mới đúng. Nữ-tử lấy phế-bộ trâm-thủ, để quyết sơ-niên. Trung-thủ để đoán trung-chủ. Tỳ-bộ trầm-thủ để đoán mạt-chủ. Lại như thượng phùng số 1 mà ngừng, tức thị việc cuả quẻ kiền, khí-số trước 25 tuổi, số 2 mà  ngừng, tức thị hành-vận cuả quẻ đoài. Kỳ dư phỏng theo đó.

        Đại-để, nam-tử nên hành khí-vận đông-nam, tức thị các quẻ ly, tốn chấn, khôn. Lấy thửa khí-vận tương-sinh, không khắc, không hối-trệ.Nữ-tử nên hành tây-bắc.là các quẻ kiên, đoài, khảm vậy. Thủ thửa khí thâu-liễm làm hợp thửa nghi. Ví bằng nam-tử được vận tây-bắc là hối-trệ, là việc hay có thành-bại. Nữ-tử bắt chước theo đó. Mạch xuất-thân, để đoán mạch đức-tính. Tâm-mạch thượng-trầm thủ. Như ứng-chỉ được số 1 mà ngưng, tức thị quẻ kiền, là xuất-thân. Bởi chưng hai quẻ kiền-đoài,là tính ôn-hoà, khoan-đại. Hung-khảm bình-thản. Quẻ chấn ắt tâm trực khẩu quyết, không nhận khích-xúc. Hai quẻ ly-tốn là tính hung-khâm quang-tế (hết giản). Hai quẻ khảm-cấn, là tính trầm-chấp, ngân-độc bất-thường, là tính tâm người hay làm lợi mình hại người. Quẻ khôn là tính trì-hoãn, có lòng đới-vật tế-hãn. Lấy điều ấy tham-đoán, quyết không tham-sai. Người béo khoẻ nên có mạch trầm-tế. Án đấy chí cốt, người gầy, mạch phù-đại ứng-chỉ. Chí cân-cốt là hợp-độ. Người giầu-sang, mạch nên trầm-tĩnh, không nên tháo-cấp. Hạ-chỉ chí cốt mới ứng. Trong trầm-tĩnh, sắc-tạng như châu phân-minh, là mạch nhập-cách.

        Nữ-tử xuất-thân, can-bộ trầm-tĩnh, thủ quái-số để đoán tính-hạnh, kiêm tâm-tính suy-luận. Quyết nói:

Hiệu mạch chi pháp yếu tâm hiền,

Nhược hoàn án-bản tắc đồ-nhiên.

Đại-phàm số mạch bình chí số,

Biểu-lý tường-quan đoán cận-nguyên.

 

Như thần biến-hoá bách thiên niên,

Bất-luận tiền-thiên cập hâu-thiên.

Lưỡbg thủ chi trung phân tạo-hoá,

Nhược nhân ngộ đắc ứng như truyền.

Tri nam-nữ luận:

          7 x 7 = 49 cộng với số tháng cuả thai, cộng thêm tuổi người mẹ, + 17. Nam nhất nữ song-toàn. Thượng-bán-niên, sản cách niên-số; hạ-bán-niên, dĩ kim tuế-số luận.

Lục-khí:

        Lập-xuân đến xuân-phân là sơ-khí.Thanh-minh đến tiểu-mãn là nhị-khí. Mang-chủng đến đại-thử là tam-khí. Lập-thu đến thu-phân là tứ-khí. Hàn-lộ đến tiểu-tuyết là ngũ-khí. Đại-tuyết đến đại-hàn là lục-khí.

Ngũ-quân:

        (Giáp-kỷ thổ-vận, ất-canh kim-vận, bính-tân thủy-vận, đinh-nhâm mộc-vận, mậu-quý hoả-vận) (Tam-âm tam-dương kim-thổ-hoả gọi là ngũ-căn hoả-mộc-thủy).

        Thái-cực-đồ: khuyết.

        Trời đất là một thái-cực.Nhân-thân là một trời đất. Ôi! Ngũ-hành trong khoảng trời đất, từ trời 1 sinh thủy, thuỷ sinh mộc.mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim phục-sinh thủy. Ngũ-hành thuận-bố, tam-âm tam-dương, sở dĩ gọi là ngũ-căn. Đến như Thái-huyền, cái gọi là mộc-hoả-thổ-kim-thủy, lấy mộc ở trên, thủy ở dưới, là cái người ta gọi là tương-sinh vô-cùng, biểu-số Hà-đồ. Cái Nghiêu-điển gọi là thủy-hoả-kim-mc-thổ, mỗi mỗi ngũ-hành tương-khắc, Lạc-thư tương-khắc mà thành. Nhân-thân cũng vậy. Con người bẩm khí trời đất mà sinh, nên khí ngũ-hành ẩn nơi ngũ-tạng, thấy nơi lục-phủ. Từ thận thủy sinh can mộc, can mộc sinh tâm quân-hoả, tâm quân-hoả sinh tam-tiêu tướng-hoả, tướng-hoả sinh tỳ thổ, tỳ thổ sinh phế kim, phế kim phục-sinh thận thủy, lấy tương-sinh mà thành. Lại như thyủy sinh mộc, tức thị thủy là mẹ mà mộc là con. Mộc phục-sinh là mộc thụ thiết-khí, nên thủy nộ mà khắc hoả. Chính là cái ta gọi là con thụ thiết-khí, mẹ bèn lực tranh. Hoả lại sinh thổ, là hoả làm mẹ, thổ làm con. Thổ thấy hoả bị thủy khắc, nên nổi giận mà khắc thủy, chính là cái ta gọi là mẹ bị quỷ-thương. Con chạy lại dùng sức mà cứu mẹ. Tương-sinh tương-khắc, triển-chuyển vô-cùng, đó là thái-cực cuả nhân-thân vậy. Nên người giỏi xem mạch tái-lập công cuả tạo-hoá, xảo-thể chính cuả âm-dương, cùng vi cuả nhất-động, cứu-thất cuả vạn-vật. Tuy mạch phân lục-bộ, biến-ứng vạn-thù. Y-gia phân thành thất-biểu, bát-lý, cửu-đạo đẳng-mạch. Tương-khảo tham-luận, thâm-thiết thâm minh. Sách vở cả trăm ngàn nhà, không những chỉ muôn ngàn lời mà thôi đâu. Đầy đủ tươm tất. Đồ có hoặc sót, nhưng mà nghiên-cứu thủ-dụng, hỗ-tương có đắc-thất, suất vị, tận thửa cơ-yếu, mà được bên ngoài cuả thái-thủy thái-tố mà không biết là trong khoảng trời đất, ngũ-hành cuả chúng-nhân, thửa khí tán tại nhân-thân. Ngũ-hành cuả một người, thửa khí chuyên. Trong khoảng một cử-chỉ, mà biết người ấy bình-sinh là người như thế nào, đương thủ dụng nào. Giầu-sang, nghèo hèn, thọ-yểu, chính-tà, như biện trắng đen, như số 1, số 2. Không biết cha-mẹ, vợ con sống chết ra sao. Thân-tâm không năng ngộ. Không gì là chẳng biết. Điều đó là nhờ lý. Ôi Mạch thái-tố lấy tâm làm chủ mệnh. Tâm là vua vậy, là chủ cuả một người.Lấy ruột non làm thiên-di, bởi chưng là chí. Điều mà tâm biết, bẩm lệnh mà hành, cát hung hối-lẫn sinh ra. Lấy đảm làm  phúc-đức. Đảm là phúc-đức cuả can-khí, thu-dụng cuả tâm. Tâm lấy can làm quan-lộc. Can được thủy sinh,là mẹ cuả tâm. Được thiên-nồng. Lấy phế làm phụ-mẫu, bởi chưng phế là nguyệt-bột, tượng cuả phụ-mẫu, cái mà sơ-khí sở chủ. Ruột già là vợ con, bởi chưng ruột già là kế-đô; được khí cuả phế, phối với sơ-khí. Vị là tài-bạch, bởi chưng vị được dư-khí cuả tỳ. Tỳ là điền-trạch. Mà tỳ-khísở dĩ tư-dưỡng vạn-vật vậy. Tam-tiêu là lộc-mã. Tướng-hoả thụ mệnh nơi tâm. Lấy cái đó mà cầu, không gì là chẳng đỗng-triệt. Lại thêm, tâm-mạch thuộc hoả-tính mà thâu nó không đầy 9, mà chỉ dùng có 8. Kiền 1, đoài 2, ly 3, chấn 4, tốn 5, khảm 6, cấn 7, khôn 8, ắt lại quay về kiền 1. Con người gặp nó, ắt là số kháng-dưong. Cô-bần vô-tỷ. Còn nói khí-số gì nữa.

        Nhân chủ cát-hung, chủ khí-số 15 tuổi trở về trước. Thửa thế phù-hồng như số 1 mà ngừng. Đại-nhân được nó, chủ tính cao-minh, cương-kiện, thuần-nhất không thôi. Tiểu-nhân được nó, ắt chủ tính khinh-tháo, thường có tật minh-sát mà thôi, không mất là kẻ sĩ cảnh-trực. Số 2 mà ngừng ắt chủ tính hoà-duyệt. Tâm-sự bình-thản, tôn-kính người khác, mà người khác cũng thường kính lại. Đạt ắt y phương truyền, cùng mà hội-nhan, thuần nơi tâm người quân-tử. Không có tơ-hào nhân–dục. Số 3 mà ngừng, ắt chủ quyết làm thông-minh cơ-mẫn, sảng-lệ quang-tễ, đãi nhân tiếp-vật. Khác tận kỳ tình, đoan làm kẻ sĩ văn-chương. Người trung-nồng. Số 4 mà ngừng, ắt chủ tính táo-bạo. Không năng dung vật, trực-gia nghiêm-túc. Thành-tín  đối với người khác. Tâm-tính xử-sự đắc nghi. Không có tâm-điạ ích-kỷ hại nhân. Cũng chủ thông-minh văn-chương. Rốt cuộc, không miễn được hỉ-nộ thất-thường. Số 5 mà ngừng, chủ tính thông-minh cơ-biến, đa-học, đa năng, du-thuyết biện-cấp, triệt-hợp tung-hoành. Nhưng xử-tính bất-định, ở khoảng giữa quân-tử và tiểu-nhân, lớn lên nơi bôn-cạnh, dễ dao-động, không phải là kẻ sĩ cửu-lưu, ắt là bọn du-hiệp. Số 6 mà ngừng, gian-ác, khúc-khủyu, siểm-trá, tà-nịnh, tạo ác hưng báng, phản đạo bội đức, nhỏ thì là tặc-nhân, lớn ắt nghịch trời tối-gian-ác. Số 7 mà ngừng, chủ tính ngoan-ngu vô trí, khôn phân-biệt nếp tẻ. Là dân cầy ruộng, hay phu khan vác, hoặc hữu dõng vô-mưu, là cái mà ta gọi là ngu-phụ. Số 8 mà ngừng chủ tính trì-hoãn ôn-hoà. Dung vật nạp-uế. Lân-cô niên-quả, khinh tài hiếu thí. Lạc đạo an bần. Không tị-nạnh với người khác, Người khác cũng không khi dễ mình. Không phải là kẻ sĩ trưởng-giả, ắt là người ẩn-dật sơn-lâm. Nếu lại như châu minh-tinh, ắt phúc-đức thâm nồng, biểu-hiệu cuả tiêu-dao nhân-cực, vượt khỏi bọn người trần-tục. 

         Đảm-mạch chủ khí-số khoảng tuổi 15-25, thửa thể phù-huyền. Nếu là lúc hạ-chỉ, tiện như thấu-lệ tranh-huyền. Đại-tiểu huyền-câu, phù mà ứng chỉ. Phân-minh bất-tạp, thọ trên 50. Lộc tam-công, nhà tổ-phụ để lại, năm 40 tuổi là ngừng. Chức-vị đến thủ-lệnh, đến năm 20 tuổi là ngừng. Chức tham-tá, hoặc khí-số chưa kịp, nhưng được đại-thể minh-tinh, cũng chủ bọn nhiệm một chức. Nếu khí-số hỗn-tạp, lớn nhỏ không đều, ắt trong vòng 10 năm, không có chức-phận công-danh, hoặc là bôn-dũng bất-định, có quan mất chức. Thường-nhân chủ có việc quan-tụng.

        Can-mạch chủ khí-số trước 15 tuổi. Đương-số cho thân mình là tối quan-trọng. Thưa thể trầm-huyền, trên dưới 45 tuổi là ngừng. Vị đến tam-công, nếu vi-sáp, làm đến tể-tướng, tất cũng gian-nan, đến trên dưới 30 tuổi cũng ngừng. Vị đến thủ-lĩnh, trên dưới 20 tuổi cũng ngừng, ắt tạp-chức. Tán-sáp cũng vậy. Đại-tiểu minh-tịnh, qua lại như châu lưu-lợi, chủ quyền phong-hiến, kiêm phế-mạch hoạt, nắm quyền sinh-sát trong tay. Nếu tam-bộ đều huyền, mà cập số, tức chủ cửu-đỉnh, uy trấn  một phương. Ngôi đến tướng-soái, chưỏng sinh-tử kiến-tiết khaio-quan. Cát sĩ phong hầu, chí-số bất-cập, cũng có ứng thiên phu trường vạn phu ứng, hoặc giả bôn-dũng. Lục-bộ đều huyền, tâm ứng khảm đến, ắt là quân tặc, đồ-hình thích-phối. Thêm vào lục-bộ đều khắc, ắt chủ chết chém phân thây, nếu tán-sa ứng-chỉ bất-minh, ắt chủ là người bần-tiện, hạ-tiện vậy.

        Tỳ-vị mạch là khí-số sau 25 tuổi hoặc vãn-niên.Thửa thể vi-hoãn, hưởng thọ trên 50 tuổi là thượng-phú, trên 30 tuổi là trung-phú. Dưới 25 tuổi là hạ-phú. Thửa chí-số bất-cập nhưng ứng-chỉ phân-minh, vãn-niên cũng chủ khang-dụ. Nếu-tích  phù mà ứng-chỉ, có tiền không có ruộng. Trầm mà ứng-chỉ, có ruộng mà không có tiền. Phù-trầm đều ứng, là điền-tài ưu-dụ. Nếu thấy hồng-hoãn là chủ thụ tổ-nghiệp. Phù mà sáp là chủ được thê-tài, hoặc thê-tử đắc-lực thành gia, nhưng chỉ là kiến lậu-ngân. Quyền xuất từ trong. Nếu thấy vi-hoạt, ắt là có con phá-gia. Vợ dâm-dục, bản  thân ngận-tích hiếu-dâm, không năng tự-chấn. Nếu ứng-chỉ chợt số chợt trì, chợt lớn chợt nhỏ, chung thân bần-khốn. Nếu  thấy bôn-tả, ắt phá-thương tổ-nghiệp, lạo-đảo vô-thành. Mà bôn-ba, đi ăn xin, vô liêm-sỉ.

        Mạch đại-trường, thửa thể vi mà ngắn, ứng-chỉ minh-tịnh, ắt chủ thê hiền tử quý. Lại bị sáu mạch đều hắc, ắt suốt đời không con. Mệnh cô-độc, hoặc là thầy tu, sư ni. Nếu thấy hoạt-mạch, ắt chủ dưỡng-tử thành gia, quan điệt đãi lão.

         Thể phế-mạch, ngắn mà sáp, nếu ứng-chỉ phân-minh, chí-số trường-viễn, lại đới vi-hoãn, không phải là tứ thân câu khánh, ắt là phụ-mẫu song-toàn, tân-thích  thủy chí hoan, lạc thái chi ngu, nhân-sinh tối nan. Tạo-hoá rất keo lận. Tan-dũn gm-ngũ số mà ngừng, trước khắc mẹ, bôn-dũng vô-định, thiếu-niên mồ-côi cả mẹ lẫn cha. Hoãn-hoạt thường-trực, suốt đời không nhờ được người khác họ.

        Mạch tả-xích trầm mà hoạt, mạch hũu-xích hồng mà hoạt, thuả ban-sơ được khí thiên-điạ phụ-mẫu. Sở đãi nồng-hậu, giầu mà thọ. Sở đắc bạc-nhược, súc mà yểu. Đó là số nhất-định không thay đổi được. Thức-giả tường-quan thẩm-sát, lấy tả-hữu để định đại-thể cuả thọ-yểu, rồi sau mới lấy tả-hữu định tuổi thọ. Ắt vạn lần không sai một. Nếu lưỡng-xích đều thất, ngoại-thận bất-túc, hữu-xích bôn-dũng, chủ ngã tím xương hoặc bị tai nạn, hoặc bị kẻ trộm lấy tài-vật. Tả-xích bôn-dũng, chợt sơ, chợt gấp, dâm-dục khinh-cuồng. Lục-mạch ấy chuyên chủ định số ngũ-hành. Tóm lại, tâm-mạch hồng-huyền, tam-tiêu hồng-hoãn, là quân-thần khánh-hội, có làm chức-phận mà thăng-quan tiến-chức, không quan-chức chủ kỳ-vận 奇運. Nếu tâm-mạch hồng-hoạt, tam-tiêu hồng-huyền, là quân-thần thất-sở, chủ dị-thị 異是 vậy. Lục-mạch đều thụ phụ-mẫu khí, khác với con người ta. Lục-mạch tử quy mẫu phúc, chủ đắc tử như hội mẫn, can cổ hưng gia 干蠱興家. Trong lục-mạch sợ nhất là đại-mạch 代脈. Nhất mạch thụ đại, nhất tạng thụ tuyệt. Như tỳ-bộ vốn không hoãn-thể, mà trái lại bị huyền-trường phù-đại. Lấy một lúc thụ-khắc, có thể quyết-đoán là đến ngày tận-số. Nếu tứ-quý du niên, mỗi mỗi lấy bản-bộ suy-đoán, được mẫu-khí là khá cầu công-danh. Được tử-khí là khá cầu tài-bạch. Điều đó nên biết. Người suy-đoán giỏi vạn lần khiông sai một. 

Mạch du-niên 游年脈:

        Tâm thiếu-âm quân-hoả, thửa thể nếu hồng mà phù, ắt chính phát-tài. Nếu hồng-hoãn ắt là tỳ-mạch. Quân tâm-bộ 君心部 là thụ mẫu-khí. Chủ thiếu-niên thông-minh, hoặc thụ phụ-mẫu ấm làm quan-chức, hoặc là thần-đồng. Trước 15 tuổi thông-minh được khen. Nếu thấy hoạt-tật, chủ thiếu-niên có tật tâm-hư, hoặc hạ-nguyên bất-cố. Nếu nơi thận-mạch thấy xúc, chẩn chuyển-triền ắt biết năm nào bị, năm nào khỏi. Nếu thấy sáp-mạch tất chết. Là tâm-phúc tặc-nhân. Nếu hoạt-tật vô-thường, ắt tâm-kinh bị bệnh. Nếu chung-thân hoạt-sáp, ắt là kim nhập hoả-cung. Người chủ tuyệt, là cô-độc, bần-tiện. Nếu phu-dũng, chủ cuồng-võng.  Bôn hạ chủ thất-tâm. Tán-loạn chủ ưu-nghi. Chợt có, chợt không, chủ thần-quỷ. Thịt giật chủ tâm-phong. Thịt ngoan, chủ ân-cần ngu-lỗ, sáp chủ khô nhục táo, hoạt chủ tư-nhuận. Nếu triều-thủy sơ đến là thụ bệnh. Xung-quyết chủ vong dương. Vi-tế chủ tác sự bất thành, ngôn-ngữ kiển-sáp, trước nhỏ sau lớn, ắt chủ bất ngôn kỳ sự thành. Trước lớn sau nhỏ, ắt tác-sự hữu thủy vô chung. Ngân nhanh ắt tính hoà, chậm ắt tính khoan-thai. Vi ắt tính hoà. Loạn ắt tính sai vạy. Lớn ắt vô-thường. Nhỏ ắt vô-khí. Lớn nên hồng-hoãn làm chủ. Mạch phân lưỡng-lộ, ắt chạy cung thiên-di, thường chủ tại ngoại. Nếu phù mà phân, ắt chủ trục-hậu. Nếu vô-mạch mà ứng nơi sau, là thần-tiên, Phật-tổ vậy. 

Ngũ-vận sở hoá:

Giáp-kỷ thổ. Ất-canh kim. Bính-tân thủy. Đinh-nhâm mộc. Mậu-quý hoả. 

Thập-nhi chi là lục-khí:

(Hoặc gọi là lục-khí sở thuộc điạ-chi). Tý-ngọ thiếu-âm quân-hoả. Mão-dậu dương-minh táo kim. Thìn-tuất thái-dương hàn thủy. Sửu-mùi thái-âm thấp thổ. Dần-thân thiếu-dương tướng-hoả. Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc. 

Ngũ-vận sở hoá:

Giáp-kỷ thổ. Ât-canh kim. Bính-tân thủy. Đinh-nhâm mộc. Mậu-quý hoả. 

Lấy năm độn tháng:

Giáp-kỷ chi niên bính tác thủ.

Ất-canh chi tuế mậu vi đầu.

Bính-tân chi tuế tầm canh thượng.

Đinh-nhâm nhâm-dần thuận hành-lưu.

Duy hữu mậu-quý hà phương phát?

Giáp-dần chi thượng hảo suy-cầu.

 

Lấy ngày độn giờ:

Giáp-kỷ hoàn sinh giáp.

Ất-canh bính tác sơ.

Bính-tân tầm mậu-tý.

Đinh-nhâm canh-tý cư.

Mậu-quý hà phương phát?

Nhâm-tý thị chân-đồ.

 

Ngũ-tạng sở thuộc hành niên nguyệt-khí nhật thời:

 

Giáp đảm, ất can, bính tiểu-trường,

Đinh tâm, mậu vị, kỷ tỳ hành.

Canh thuộc đại-trường, tân thuộc phế,

Nhâm nãi bàng-quang, quý thận đương.

 

Chu thiên phù tuế hội:

         Ất, dậu: kim; binh, tuất: thủy; đinh, hợi: mộc; mậu, tý: hoả; ất, mão: kim; bính, thìn: thủy; đinh, tỵ: mộc; mậu, ngọ: hoả; kỷ, mùi: thổ; kỷ, sửu: thổ. 

Tả-thủ mạch:

        Hoả: tả thốn mạch vi-hồng; (tâm, tiểu-trường) hoả như hữu trạm-mạch, thị hữu xích-mạch. Thuộc thủy. Thị thủy khắc hoả. Viết bệnh. Mộc tả-quan mạch vi-huyền (can đảm). Mộc như hữu sáp-mạch, thị hữu-thốn-mạch, thuộc kim. Thị kim khắc mộc. Viết bệnh. Thủy, tả-xích-mạch vi-trầm (thận, bàng-quang). Thủy như hữu hoãn-mạch, thị hữu-quan-mạch, thuộc thổ. Thị thổ khắc thủy. Viết bệnh. 

Hữu-thủ mạch:

        Kim, hữu-thủ-mạch vi-sáp. (Phế, đại-trường) Kim như có vi-mạch, là tả-thốn-mạch. hoả khắc kim. Viết bệnh. Thổ có quan-mạch vi-hoãn. (Tỳ-vị) thổ như có huyền-mạch, là tả-quan-mạch. Mộc khắc thổ. Viết bệnh. Hoả có xích-mạch vi-số. (Mệnh-môn, tam-tiêu). Hoả như có trầm-trì-mạch là tả-xích-mạch. Thủy khắc hoả. Viết bệnh. Tả-thốn-mạch phù, tâm hữu dư. Trầm-trì, bất-túc. Hữu-thốn-mạch phù, phế hữu dư. Trầm-trì, bất-túc. Hữu-quan-mạch phù, tỳ hữu dư, trầm-trì bất-túc. Hữu-xích-mạch phù-huyền là mệnh-môn, tam-tiêu hữu dư, trầm-trì, bất-túc. 

Thập-nhị kinh:

        Tả-thủ-mạch (tâm, tiểu-trường) hoả. Quan-mạch (can-đảm), mộc. Xích-mạch (thận, bàng-quang) thủy. Hữu-thủ-mạch (phế, đại-trường), kim. Quan-mạch (tỳ-vị) thổ. Xích-mạch (mệnh-môn, tam-tiêu), thủy. Tả-tâm-mạch vi-hồng, viết bình. Hồng đa, vị-khí thiểu, viết bệnh. Như mạch trầm, là thận, tâm, can vậy. Phu khắc thê. Hồng thậm, dùng hoàng-liên giải-độc thang chủ đấy. Trầm-trì uống thanh-tâm liên-tử chủ đấy.

          Tả-quan phù-mạch vi-huyền. Viết bình. Huyền đa vị-khí thiểu. Viết bệnh. Như hữu sáp-mạch là kim khắc mộc. Hữu dư huyền-khẩn. Dùng đào-nhân thừa khí-thang chủ nó. Không đủ, dùng mộc-hương hoá-đới thang chủ nó.

          Tả-xích mạch trầm viết bình. Trầm đa vị-khí thiểu viết bệnh. Như có hoãn-mạch là thổ khắc thủy. Hữu dư, tự-thận-hoàn gia hoàng-bá tri-mẫu tả nó. Không đủ, dùng phụ-tử tứ-nghịch-thang ôn nó. Thận vô hữu dư, đa bất-túc.

          Hữu-thốn mạch vi-sáp, viết bình. Sáp đa, vị-khí thiểu, viết bệnh. Như có mạch bên trong là tâm-hoả tà-thương. Hữu dư, dùng tri-mẫu dịch-linh thang tả nó. Không đủ, dùng mạch-môn đông-ẩm tử bổ nó.

          Hữu-quan-mạch vi-hoãn viết bình. Hoãn đa, vị-khí thiểu, viết bệnh. Như có huyền-mạch là can mộc khắc thổ. Hữu dư, dùng điều-vị thừa-khí thang hạ nó.  Không đủ, dùng, dùng trị-trung thang bổ nó.

          Hữu-xích mạch vi-số, viết bình. Số đa, vị-khí thiểu, viết bệnh. Hữu dư, dùng lương-cách-tán chủ nó. Không đủ, dùng tử-nghịch thang bổ nó. 

Ngũ-hành tương-sinh:

        Kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim.

Ngũ-hành tương-khắc:

  Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hoả, hoả khắc kim.

Hà-đồ sinh-thành số:

        Trời 1 sinh thủy, đất 6 thành nó. Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành nó. Trời 3 sinh mộc, đất 8 thành nó. Đất 4 sinh kim, trời 9 thành nó. Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành nó. Thủy 1-6, hoả 2-7, mộc 3-8, kim 4-9, thổ 5-10.

        Giả như chẩn tâm-mạch, được số 1, số 6 mà ngừng là thủy khắc hoả. Nếu gặp bính-tân cùng thìn-tuất là chết, bạch-thời là chết. Kỳ dư, phỏng theo đó.

        Can–mạch chẩn được số 4, số 9 mà ngừng là kim khắc mộc, gặp ngày giờ ất-canh, mão-dậu là chết.

        Chẩn tỳ-mạch được số 3, số 8 mà ngừng, là mộc khắc thổ. Gặp ngày giờ đinh-nhâm, tỵ-hợi là chết.

        Chẩn phế-mạch, được số 2, số 7 mà ngừng, là hoả khắc kim. Gặp ngày giờ mậu-quý, tí-ngọ là chết.

        Chẩn thận-mạch, được số 5, số 10 mà ngừng, là thổ khắc thủy, gặp ngày giờ giáp-kỷ, sửu-mùi là chết.

Thập-can ngũ-hành tổng-quát:

         Đông-phương giáp-ất mộc, nam-phương bính-đinh hoả, tây-phương canh-tân kim, bắc-phương nhâm-qúy thủy, trung-ương mậu-kỷ thổ.

Thập-can ngũ-vận sở hoá ca:

Giáp-kỷ hoá thổ ất-canh kim (câm),

Đinh-nhâm hoá mộc tận thành lâm,

Bính-tân hoá thủy thao-thao khứ,

Mậu-quý nam-phương hoá diễm-xâm. 

Lục-khí sở thuộc can chi:

        Tí-ngọ thiếu-âm quân-hoả thiên . Mão-dậu dương-minh táo kim. Thìn-tuất thái-dương hàn thủy. Sửu-mùi thái-âm thấp thổ. Dần-thân thiếu-dương tướng-hoả. Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc. 

Phép đoán bệnh theo năm tháng ngày giờ gia-lâm cùng thiên-phù vận-khí:

        Ất dậu kim (ất canh hoá kim, mão-dậu dương-minh táo kim).

        Bính tuất thủy (bính tân hoá thủy, thin tuất thái-dương hàn thủy).

        Đinh hợi mộc (đinh nhâm hoá mộc, kỷ hợi quyết-âm phong mộc). Mậu tý hoả (mậu quý hoá hoả. Tý-ngọ thiếu-âm quân-hoả). Kỷ sửu thổ (giáp kỷ hoá thổ, sửu mùi thái-âm thấp thổ).

        Ất-mão kim (ất-canh hoá kim, mão-dậu dậu dương-minh táo kim). Bình-thìn thủy. (Bính-tân hoá thủy.Thìn-tuất thái-dương hàn thủy).

        Đinh-tỵ mộc. (Đinh-nhâm hoá thủy. Tỵ-hợi quyết-âm phong mộc).

        Mậu-ngọ hoả. (Mậu-quý hoá hoả. Tý-ngọ thiếu-âm quân-hoả). Kỷ-mùi thổ (Giáp-kỷ hoá thổ. Sửu-mùi thái-âm thấp thổ). 

Phép đoán bệnh theo năm tháng ngày giờ:

        Lục-mạch Chưởng-đồ 六脈掌圖: khuyết.

        Giả như năm bính-tuất, gặp ngày giờ bính-tuất, bính-thìn, lại lo tâm-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này khả trị.

        Giả như năm ất-dậu, gặp ngày giờ ất-dậu, ất-mão, lại lo can-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này khả trị.

        Giả như năm đinh-hợi, gặp ngày giờ đinh-hợi, đinh-tỵ, lại lo tỳ-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này khả trị.

        Giả như năm mậu-ngọ, lại gặp ngày giờ mậu-ngọ, mậu-tý, lại lo phế-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này khả trị.

        Giả như năm kỷ-sửu, gặp ngày giờ kỷ-sửu, kỷ-mùi, lại lo thận-kinh thụ bệnh, trực vào đồng-vận ngày giờ chết. Nếu qua khỏi ngày này khả trị. 

Thương-hàn lục-kinh truyền-biến nhật-pháp:

        Ngày thứ nhất, thái-dương-kinh, đầu nhức, thân nóng. Phép đang chẩy mồ-hôi. Tiên-niên hữu dư, song giải-tán. Tiên-niên bất-túc, nhân tham bại-độc-ẩm. Giả như năm ất-mùi, thấp-thổ tư-thiên, thìn-tuất thái-âm hàn-thủy tại tuyền, sang năm song giải-tán, lại càng thêm mạch hư-thực phù-tán. Số mà lớn, gọi là hữu dư. Viết thực. Số đoản mà vi, gọi là bất-túc. Viết hư. 

        Ngày thứ hai dương-minh-kinh đuơng hoà-điện trung-tham. Thêm tứ-linh-tán.

        Ngày thứ ba, thiếu-dương-kinh, tiểu-sài-hồ thang.

        Ngày thứ tư, thái-âm-kinh thần-đan.

        Ngày thứ năm, thiếu-âm-kinh, miệng khô lưỡi táo.

        Ngày thứ sáu, quyết-âm-kinh dương-hạ.

        Ngày thứ bẩy, lục-kinh truyền-biến, lạo-phục thái-dương. Lại lấy hãn-hạ.

        Như mạch-phù khẩn, đại-phiền lại ra mồ-hôi, như mạch trầm mà trì, án-hạ khẩn-thức. Lại hạ.

        Như hữu-quan-mạch, là mạch dương-minh vị thổ, phù-khẩn mà hồng. Đầu mặt vi-hồng, đoán ngày đó phát-ban. 

Phân nam-nữ mạch:

        Nam-tử xích-mạch thường yếu (khí hữu dư là vô-sự). Nữ-tử xích-mạch thường thịnh (máu hữu dư là vô-sự).

        Kinh nói: nữ-nhân trái thế xem lưng (nữ cần xích thịnh mà thốn nhược). Gọi là 'phản thử'. Nam cần thốn thịnh mà xích nhược). Gọi là 'phản thử'. Đoán bệnh cũng vậy.

        Đồng-nữ mạch, xích nhược mà thốn thịnh. Đồng-tử mạch, xích thịnh mà thốn nhược.

        Nam-tử, nếu xích-mạch lớn mà phù, tên là hư, tất tẩu tinh.

        Nữ-tử nếu xích-mạch phù mà lớn, hoặc trầm mà vi, tất kinh-mạch bất-điều, mạch bán hư lậu huyết. Thêm có dựng-mạch, xích-mạch khẩn-thực mà lớn đến quân-điều 勻調, tức thị đàn-bà có mang. Lại thêm thổ-nghịch, là ba tháng. Tả-thủ xích-mạch phù đại, đoán là nam. Hữu-thủ xích-mạch phù-đại, đoán là nữ. 

Y-gia nạn-kinh huyền-diệu:

       Kinh nói: can thanh tượng mộc. Phế bạch tượng kim. Nay can được thủy mà trầm. Ôi! Mộc được thủy mà phù, kim được thủy mà trầm. Nay bèn mộc trầm kim phù, ý-nghiã như thế nào? Nhưng can không phải là thuần-mộc, là ất-dậu. Nhu-tông cuả canh. Lớn thì nói âm với dương. Nhỏ thì nói chồng với vợ. Thích nghiã thửa vi-dương, mà hút thửa vi-khí. Thửa ý ưa kim. Lại hành âm-đạo nhiều. Nên nay can được thủy mà trầm, là phế, không là thuần kim, là tân-tỵ, nhu-tông cuả bính. Lớn thì nói âm với dương. Nhỏ thì nói chồng với vợ. Thích nghiã thửa vi-âm. Hôn mà tựu-hoả. Thửa ý ưa hoả. Phản hành dương-đạo đa. Nên nay phổi được thủy mà phù. Phế nhiệt mà trầm. Tại sao? Biết là tâm đang quy canh, ất đương nạp-giáp. 

 

Xem Bài số 7

 

trong ĐẶC SAN XUÂN TẾT ĐINH DẬU 2017

 

 

 

 

 

 

GS Nguyễn Hữu Quang
Nguyên Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975

 

  

 

 

www.ninh-hoa.com