THỊT CHÀ BONG
Phạm
Thanh
khâm
|


Đầu thập niên 1980, tôi đi nhận việc ở Conakry, Guinea, có bà xă của tôi
cùng đi. Nhà cửa của dự án chưa xây xong, nên phải ở khách sạn
“Hotel Unité” vài tháng. Khách sạn không có bếp, phải ăn tại
khách sạn và các nhà hàng người Lebanese. Sau ba tháng đầu tiên,
bà xă của tôi không chịu nổi, vừa nhớ mấy đứa con đang học tại
Mỹ, vừa nhớ cơm do tự ḿnh nấu nên về nhà trước.
Sau khi tôi dời về nhà của dự án vùng ngoại ô của thủ đô
Conaktry và ở đây bốn năm (căn nhà ngoại ô này được mô tả trong phần đầu
của bài Óc Dê Kho Tộ), bà xă của tôi thường đến và các con tôi hàng năm
đều đến thăm tôi 2 tháng hè. Tôi đă thuê thầy riêng dạy tiếng Pháp cho
các con tôi trong các chuyến thăm Guinea. Sở dĩ tố và toàn nhóm tám
chuyên gia của dự án (3 người Pháp, 4 người Ḥa Lan và tôi) do Ngân Hàng
Thế Giới tài trợ ở được lâu như vậy v́ Ngân Hàng đă sắp xếp khế ước làm
việc đặc biệt, để tránh t́nh trạng bỏ cuộc của chuyên gia trừ trường hợp
bất khả kháng sẽ viết ở đoạn sau. T́m người khác thay thế, công việc sẽ
không liên tục. Hơn nữa điều kiện làm việc không giống như tại các nước
kỹ nghệ. Khế ước làm việc của từng người kư kết như sau; 5 tháng làm
việc, 1 tháng “vacation” hồi hương (có lănh lương đầy đủ) hoặc đ́ du
dịch ở đâu đó trên thế giới (tùy túi tiền riêng từng người) cho chuyên
gia độc thân; 10 tháng làm việc, 2 tháng nghỉ hồi hương (có lănh lương
đầy đủ trong 2 tháng nghỉ) cho chuyên gia có gia đ́nh như tôi.
Cuối năm 1981, tôi có trách nhiệm giúp thiết lập ba trung tâm
khảo cứu lúa gạo Baro, Koba, Gueckédou cho ba vùng cao nguyên, duyên
hải, và vùng rừng núi trong khi ba Giám đốc trẻ người Guinea được tôi
đến Đại học Montpellier, Pháp sắp xếp chương tŕnh tu nghiệp cho họ. Đă
thực hiện nhiều chuyến công tác “xuất ngoại” hướng dẫn chuyến đi hội
thảo về lúa gạo tại Liberia, Sierra Leone, Mali, Sénégal… cùng với đối
tác viên Guinea. Hai điều xảy ra đáng nhớ nhứt là trận động đất ở cao
nguyên Fouta Djalon chôn sống một làng nơi tôi dự tính đi thăm để nghiên
cứu giống lúa hoang Oryza Glaberrima, hay Oryza Eichingeri. Và toàn nhóm
chuyên gia của chúng tôi vừa ăn sáng vừa mục kích tại vùng rừng núi
Gueckédou cảnh xử bắn một giáo viên tiểu học đă đồng lơa đưa một học tṛ
gái 11 tuổi cho một giáo chủ cuồng tín ở biên giới Sierra Leone-Guinea
giết tế thân linh. Đồng nghiệp Menuisier đưa máy ảnh chụp lén bị Thống
Đốc Gueckédou phát giác yêu cầu cho hủy bỏ cuốn phim ngay tại chỗ.
Đất nước Guinea vào thời kỳ này “tụt hậu” thê thảm dưới thời
cai trị của cố Camarade Président Sékou Touré. Ông theo đuổi đường lối
xă hội chủ nghĩa thắt lưng buộc bụng sau khi gởi thư cho Charles De
Gaule tách rời ảnh hưởng của Pháp với lời truyên bố bất hủ: “Chúng tôi
thích nghèo trong tự do hơn giàu trong nô lệ”. Ông bị đau tim, mất năm
1983 sau khi chở đi Hoa Kỳ cứu cấp không kịp. Ông có tài hùng biện bằng
Pháp Ngữ, mỗi tối lên đài phát thanh khuyên bảo dân theo gương dân tộc
của nưóc anh em Cuba. Thường tự lái xe dở mui trần đưa quốc khách đi dạo
bờ biển dọc theo thủ đô Conakry.
Trong tất cả văn thư cho bất cứ ai từ Tổng Thống, Đại sứ đến
nhân viên nhỏ nhất đều bắt đầu Camarade thay v́ Madame, Mademoiselle,
Monsieur, kết thúc công văn bằng Prêt Pour la Révolution (Sẵn sàng Cho
Cách Mạng) thay câu văn mẫu mực Veuillez agréer Madame/Monsieur mes
salutations distinguées (Kính thơ). Điện đàm hay gặp nhau phải bắt đầu
tiếng Prêt thay Allô hay Bonjour và kết thúc cuộc điện đàm hay lời từ
biệt Au revoir bằng Prêt Pour La Révolution. Nhóm chuyên gia của chúng
tôi cũng được gọi chung là Camarade Expert. Một lần nọ Camarade
Directeur General de l’ONADER (Opération Nationale de Développement de
la Riziculture) dự thảo một văn thư gởi đi Washington D.C. nguyên văn
bắt đầu Camarade Directeur General De La Banque Mondiale, và cũng kết
thúc Prêt Pour La Révolution, tôi đă phải vào văn pḥng Camarade
Directeur Général nhắc nhở Ông tưởng vậy nhưng không phải vậy, cần viết
theo “style classique”. Từ đó nhóm chúng tôi được gọi Monsieur Expert!
Nước Guinea lúc bấy giờ không có chợ. Hàng hóa trao đổi qua Hợp
Tác Xă theo chế độ hộ khẩu. Dân ở thành thị được đưa về các FAPA (Ferme
Agro Pastorale) thiếu thốn phương tiện sản xuất, một h́nh thức khu kinh
tế mới ở Việt Nam và nông trường tập thể ở Trung Quốc của đầu thập niên
1980. Những người khá giả, hoặc có phương tiện đều bỏ trốn qua biên giới
đến các nước kế cận (Côte d’Ivoire, Sierra Leone…). Guinea bắt đầu trồng
lúa, và Ngân Hàng Thế Giới dùng ngân khoản 20 triệu Đô la để tài trợ cho
dự án này. Hai năm sau khi tôi đến, một đồng nghiệp người Ḥa Lan, bạn
Degraff, bị đau viêm gan cấp tính được di tản về nước cùng vợ và hai con
nhỏ. Một người Việt Nam c̣n độc thân đến thay nâng tỉ số người Việt
trong nhóm lên 2 trên 8 (3 người Pháp, 3 người Ḥa Lan, 2 người Việt).
Anh Đinh Xuân Quân học lấy bằng Doctorat d’Etat tại Sorbone trước năm
1975, sau năm 1975 anh đi tù cải tạo tại Việt Nam bốn năm. Anh đă đưa
những h́nh ảnh chính xác về sự tương đồng của hai nước Việt- Guinea vào
thời kỳ này.
Hơn mười năm sau (1994) tôi trở lại Guinea cho một dự án ngắn
hạn của FAO. Đất nước này rơi vào khủng hoảng kinh tế hơn. Tướng Lansana
Conté cai trị đất nước theo chế độ quân phiệt làm tụt lợi tức/người
xuống dưới 290 đô la. Có nghĩa dân chúng chỉ sống mỗi ngày trong khoảng
50 cents và 1 đô la. Các con số khô khan 200-290 đô la lợi tức trên đầu
người đă phát họa được cảnh nghèo khổ của dân Guinea. Được FAO cử làm
Trưởng Phái Đoàn trong công tác lượng giá một dự án luá gạo (Tài trợ
Nhựt, FAO thực thi dự án), tôi trờ lại Guinea như một chuyến “coming
home”. Người đại diện chính phủ Guinea, Ông Sano, tham dự vào phái đoàn
lượng giá là nguyên Giám đốc chương tŕnh sản xuất lúa giống ONADER vùng
Gueckédou mười lăm năm về trước. Vừa gặp nhau tay bắt mặt mừng, tôi ghé
vào tai của Ông nói nhỏ Prêt Pour La Révolution. Ông bật cười đến chảy
nước mắt. Mọi người hiện diện không biết hai chúng tôi có điều ǵ tâm
đắc.
Ngày nay Guinea vẫn c̣n được xếp vào danh sách những nước
nghèo nhứt thế giới mặc dù xứ có đến 25% bauxite dự trữ của thế giới, có
mơ sắt, kim cương, vàng, uranium và tiềm năng thủy điện. Về đất đai,
Guinea chỉ rộng bằng 3/4 nước Việt và có dân số gần 1/10 Việt Nam. Ba
sắc dân chính là Peuhl (40%), Malinke (30%), Soussou (20%).
Nhớ lại với chiếc Land Rover mới cắt chỉ và tài xế Boubacar,
tôi đă mất nhiều ngày tháng đi lại trên xa lộ, đường ṃn dọc đồi núi
trên đất nước Guinea. Trong nhiều chuyến đi Baro, thịt nướng từ heo
rừng, mễn, nhím, v.v., do người bộ lạc săn được, sữa tươi từ dê ḅ, các
thức ăn khác như cousse cousse, xoài, các loại khoai ḿ, rượu Bangui lên
men từ nhựa mủ dừa là những thức ăn đặc sản làm chuẩn. Trên quốc lộ 1
gần thủ phủ cao nguyên Kankan, quán ăn và pḥng trọ của Madame Diallo
đối với tôi lúc bấy giờ được xem như oasis nhỏ (khoảng đất có cây cối ở
giữa sa mạc) mà đám lạc đà bắt gặp giữa sa mạc Sahara. Khách có thể có
những tiện nghi tối thiểu cùng bữa ăn nóng đầy hương vị, nhưng không ai
ngoài tôi và nữ chủ nhân nhà hàng hiểu được những bài hát từ Thái Thanh,
Kim Tước, hay những câu vọng cổ mùi của Út Trà Ôn, Thành Được phát từ
hai loa phóng thanh đặt mỗi góc pḥng ăn.
Những chuyến đi Koba, vùng duyên hải, ngoài cá tươi nướng, buổi
sáng có thể t́m được bánh chiên ‘akara’ hoặc ‘moi moi’ làm từ bột đậu mà
sau này tôi thấy nhiều ở Nigeria với óc dê kho tộ, thịt ḅ nướng “suya”,
v.v. Đến Guekédou, tại nhà văng lai của dự án và khi nào Madame Dupey
đoàn tụ cùng chồng đều có được thức ăn của người Parisien với rượu chát
đỏ. Nhưng không phải lúc nào cũng có thức ăn Âu châu, nhứt là lúc nữ gia
chủ có việc phải về Paris. Cùng người nấu bếp, nhưng tùy sự hiện diện
của người đàn bà trong nhà đồng nghiệp hào phóng Dupey, thức ăn nấu theo
khẩu vị của người đàn bà có mặt, thực khách thưởng thức bữa ăn trên tiêu
chuẩn “fringe benefit”. Vào một buổi sáng trước khi đến sở, mẫu đối đáp
dí dơm nghe được như sau giữa người đầu bếp và đồng nghiệp hào phóng
Pháp Lan Sa:
- Hăy chuẩn bị nấu cho 6 người ăn. D’accord!
- Thưa Patron, nấu cho Madame Blanche hay Madame Noire?
Từ vùng rừng núi Gueckédou, hoặc cao nguyên Kankan trở về thủ
đô Conakry phải đi qua Kindia, không thể không ghé lại quán ăn có tên
rất đặc thù, Restaurant Điện Biên Phủ do Madame Sow điều hành. Một lần
tôi ghé lại, Bà đă thết đăi khách đồng hương dĩa cơm gà Hải nam không
thấy trên tờ thực đơn. Có lẽ một phần trong nhiều tuần lễ không có cơm,
nhưng cách nấu cuả bà thêm nhiều tỏi, mắm nhiều gừng, kèm miếng cơm cháy
nấu với nước gà đă làm tôi nhớ nhiều năm. Năm 1994 tôi có dịp ghé lại
quán của bà, đứa con gái với màu da bánh mật tiếp tục bán thức ăn, Bà
Sow đă nghỉ hưu, sau 40 năm theo chồng trong đoàn lính lê dương Pháp rời
Việt nam 1954.
Trở lại thời gian từ ngày Anh Đinh Xuân Quân đến, sinh hoạt của
nhóm năng động hơn v́ anh c̣n độc thân, có nhiều tiết mục giải trí hơn,
nấu ăn giỏi, biết châm cứu, lại có đai đen nhu đạo, nên trong lúc trà dư
tửu hậu của những buổi ăn chiều kéo dài lê thê, chúng tôi xem anh và một
bạn trẻ làm ở ṭa Đại sứ Pháp so tài đô vật. Hoặc xem anh biểu diễn nghề
châm cứu cho những ai muốn thử các chiêu thức đông y, ngoại trừ tôi rất
”chicken” không muốn kim đụng vào da.
Bạn Pháp uống rượu ít
nhưng nói nhiều, bạn Ḥa Lan uống nhiều nói ít. Chúng tôi trở thành nhóm
“nát bàn”, có nghĩa chuyện ǵ cũng bàn đến nát bấy. Anh bạn René c̣n độc
thân chỉ thích đánh tennis với tôi. Anh tự hào về cái ổ bánh ḿ
“baguette” Pháp đă để lại cho dân thuộc địa. Anh bảo là sự hiện diện của
ổ bánh ḿ baguette Pháp là vết tích của văn hóa Pháp. Khi các chai rượu
chát đỏ lần lượt khui ra, Anh vượt biên giới ẫm thực xâm nhập vào lănh
vực văn học nghệ thuật để kết luận một hàm hồ là bánh ḿ baguette Pháp
là văn hóa Pháp (!) Tiếp theo các câu chuyện “nát bàn”, tôi khai triển
thêm đề tài văn hóa bánh ḿ baguette của anh về món thịt heo chà bong
làm món đồ ăn “snack” cần thiết trong mỗi chuyến đi xa của tôi. Nghe tôi
nói món ăn lạ anh ṭ ṃ muốn biết. Tôi lấy một muỗng lớn thịt chà bong
thưng từ thịt heo với nước mắm, giả thành sợi rất nhỏ cho kẹp vào bánh
ḿ baguette, anh vừa ăn vừa hết lời khen tặng. Với khuynh hướng “nát
bàn” anh phát minh một cụm từ mới nói rằng thịt chà bong làm với nước
mắm ăn vói bánh ḿ Pháp, ta đă có món ăn “văn hóa” Pháp-Việt (!).
Dù đă có thêm những ví von dí
dơm trên, thịt heo chà bong thực sự không thể thiếu trong số hành lư của
tôi mang theo cho các chuyến đi xa về sau. Ngoài cái PC, bao giờ cũng có
hai gói thịt chà bông đặt cạnh bao thuốc cấp cứu (thuốc ngừa sốt rét,
cầm tiêu chảy, v.v.) trước khi lên đường. Các chuyến đi gần ba mươi năm
qua và ngay bốn chuyến đi gần đây đến A-Phú Hăn cũng đă có các gói thịt
heo chà bong được tôi mang đến Kabul. Nói theo lối văn hóa của đồng
nghiệp cũ René của tôi ngày nào khi đặt ra mỹ từ văn hóa bánh ḿ
baguette th́ thịt heo chà bong đă trở thành món ăn “snack” quốc hồn quốc
túy của riêng tôi.

