Sau cuộc nội chiến Bắc
Nam, một số tướng lănh, giới chức chính quyền VNCH đă viết về
quá khứ, thời đại, tương quan liên hệ, trách nhiệm, cùng nhiều
góc cạnh được đề cập, góp phần soi sáng phần nào vấn nạn, hoài
nghi thua thiệt vẫn đeo đẳng, ám ảnh trong từng người vượt thoát
ra đi tỵ nạn cộng sản, đang có mặt khắp thế giới Tự Do.
Bên cạnh những điều
chung nhất c̣n nhắc nhở, trao đổi, b́nh luận. Cũng có không ít
những hồi kư riêng tư, dấu ấn hành tŕnh một đời người, cùng
những chặng dừng phấn đấu thử thách, những được mất hướng về
phía trước, không thể không quan tâm, ghi nhận.
“Từ Ḥn Khói Tôi Đi”
của tác giả Lê Ánh là một trong những hồi kư đó. Sinh ra, lớn
lên giữa miền quê Trung Bộ, cây lúa, hạt muối, thổ sản địa
phương, thủy hải sản là tài nguyên thu hoạch bằng chính sức lao
động của lương dân.
Giữa đồng lúa, giữa
ruộng muối, giữa biển khơi, sớm chiều vất vả, nhọc nằn, bận rộn,
nhưng tâm hồn vẫn lấp lánh những ước mơ đậm nét nhân văn truyền
thống, đă in sâu từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Mỗi khi nghĩ đến
tương lai của con cháu, khái niệm phổ quát trong nền tảng văn
hóa nông nghiệp thường là “muốn con cháu có vốn liếng tương lai,
nên để lại chữ nghĩa, hơn là của cải, vật chất…”
Các bậc tiền bối đánh
giá con người thực tế:
“Nhân bất học bất tri lư
Ấu bất học lăo hà vi…”
Sớm nhận thức hoàn
cảnh, bắt nguồn từ lời khuyên của phụ thân, tác giả nuôi mộng
trở lại mái trường sau bao năm gián đoạn v́ thời cuộc, đă thành
hiện thực. Bước qua khỏi khó khăn, lận đận lúc ban đầu, bảy năm
dưới mái trường Trung học Vơ Tánh, Nha Trang, mang lại kết quả
và niềm tin vững chắc tự thân, nh́n con đường trước mặt đang
thênh thang chờ đợi những bước đi tiếp nối của kẻ muốn dấn thân
tạo dựng sự nghiệp. Vào trường Đại Học Khoa Học Saigon, năm đầu
Dự bị Lư Hóa Sinh, tác giả thi đậu vào trường Quân Y, đúng như ư
nguyện.
Đời sống Sinh viên,
những kỳ thi cử, những khóa thực tập tại bệnh viện, cùng nhiều
trường hợp đối diện bệnh nhân, đă được tác giả ghi chép chi
tiết, đầy cảm xúc, với tâm niệm phục vụ, cống hiến có trách
nhiệm, đề cao danh dự và rèn luyện kỹ năng, thể hiện phẩm hạnh
“Lương Y như Từ Mẫu”. V́ tha nhân quên ḿnh. Bệnh nhân dù là
thành phần nào của xă hội, dù là hoàn cảnh nào, trước hết là một
con người đáng quư.
Ra trường, được bổ
nhiệm đến Quân Y viện Pleiku, thời điểm năm 1969. cuộc chiến
đang tăng cường độ. Ngày đêm, thương binh chuyển tải đến Quân Y
viện từ các mặt trận núi rừng, cũng như đồng bào Thượng rủi ro
qua những cuộc pháo kích bừa băi của cộng quân.
Người thầy thuốc nổ
lực, không ngừng tay cứu chữa. Một lời an ủi, giải thích, tiếp
cận thương bệnh binh, cũng đă tạo thêm niềm tin và hy vọng, vơi
nhẹ phần nào âu lo, nhức nhối, bức bách… Cũng có trường hợp đối
phương lỡ vận cũng được chữa trị, không phân biệt đối xử, cũng
không cần thắc mặc họ là ai?
Chiến sử rẽ qua khúc
ngoặt bất ngờ. Quân Đoàn II rút khỏi lănh thổ Cao Nguyên gấp
rút. Tan vỡ một mảng thịt xương quê hương. Không gian biến động.
Tỉnh lộ 7 nối liền Cao nguyên – Duyên hải miền Trung, tai họa ập
xuống, tang tóc trùng vây do cuộc triệt thoái chẳng đặng đừng!
Để rồi, như một tín
hiệu không lành, tháng Ba, tháng Tư hồi kết thúc bi kịch nội
chiến Bắc-Nam. Những tưởng “Đem đại nghĩa thắng hung tàn/ Lấy
chí nhân thay cường bạo” th́, trớ trêu nghịch ngươc. Kẻ ác độc,
mọi rợ lại thắng người văn minh, đạo đức!.. Câu nói khó quên của
Dương Thu Hương, nhà văn nữ, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, từ
rừng núi về giữa phố phường Sài G̣n mà khóc!! Bà khóc khi chạm
mặt với sự thật, thành phố, con người miền Nam. Bà khóc bởi tập
đoàn cộng sản miền Bắc đă lừa bịp, bưng bít, đẩy tuổi trẻ của bà
gần 20 năm rau rừng, muối đá dọc dăy Trường Sơn gọi là đi cứu
nước!!
Qua một đêm, miền Nam
trở thành nhà tù lớn, và hàng trăm nhà tù nhỏ mọc lên. Không
riêng quần chúng miền Nam chạy thoát t́m tự do, ngay cả quần
chúng miền Bắc cũng gặp vận hội có một không hai ra khỏi địa
ngục trần gian cộng sản!
Thầy thuốc Lê Ánh,
cũng đồng số phận. Kẻ thù dí súng dẫn vào trại tù nhỏ Pleiku dù
trễ muọân hơn. Điều lư thú, cai tù buộc thầy thuốc khai tŕnh
tội lỗi bản thân. Thầy thuốc đặt câu hỏi liên quan phạm trù tội
lỗi. Dĩ nhiên, cai tù không thể giải thích, ngọng nghịu, áp đặt,
khỏa lấp bằng cửa miệng nhà quan (Miệng nhà quan có gang có
thép).
Giữa ṿng vây lưu
đày, người thầy thuốc luôn tỉnh táo, sẵn sàng phục vụ, giúp đỡ
chữa trị cả bạn lẫn thù, giữ đúng chức năng thầy thuốc. Và, tin
tưởng một ngày không xa sẽ tái hiện đổi đời, màu trời sáng lại
sau cơn mưa…
Mười hai năm lận đận,
xuôi ngược, nhẫn nại, chịu đựng nghịch lư, nghịch cảnh, giờ
quyết định đă điểm, không c̣n do dự, tŕ hoăn, tính toán, người
thầy thuốc dắt bốn con trở lại Ḥn Khói, và một lần nữa “Từ Ḥn
Khói… ra đi!”
Ngày xưa, từ Ḥn Khói
đi ra thành phố Nha Trang, theo đuổi nghiệp sách đèn, tiếp xuôi
Nam bước vào đại học, cũng tại đây h́nh thành cơ duyên đôi lứa,
đồng môn, đồng nghiệp, chung mái gia đ́nh chan ḥa hạnh phúc,
th́ ngày nay, cũng từ Ḥn Khói quê hương, vượt biển Đông đến
miền đất lạ.
Tháng 5 năm 1987,
thời tiết thuận lợi hơn, nhưng cuộc vượt thoát nào chẳng giăng
mắc âu lo, bất trắc. Thân phận người đi nương cậy sóng gió rủi
may. Ngày đêm lênh đênh biển rộng, cho đến khi lương thực, nước
uống, nhiên liệu gần cạn, cũng vừa lúc cơ may ló dạng báo mừng.
Hai ghe chài của người dân Phi Luật Tân tốt bụng đă tiếp sức,
hướng dẫn vào bờ. Mùa vui vẫy gọi. Cảnh mới, đồng thời cũng từ
những trang giấy mới. Trại tỵ nạn, điểm tạm dừng chân, được tiếp
đón chu đáo, được học Anh ngữ, được thông tin, sinh hoạt tập thể
dục, văn hóa, văn nghệ, mà thành phần trí thức đến được trại đều
tích cực tham gia. Thầy thuốc cũng không bỏ lỡ cơ hội cùng những
trí thức khác đến trước tổ chức mở lớp học các môn khoa học tự
nhiên cho khá nhiều thiếu niên đang dở dang chương tŕnh trung
học, và truyền đạt ư thức về nguồn, t́nh dân tộc, quê hương dù
được đến định cư bất cứ đất nước nào.
Sinh hoạt sôi nổi,
t́nh cảm đồng hội đồng thuyền thể hiện sự gắn bó, đoàn kết. Lạc
quan, tin tưởng khi lần lượt được chấp thuận rời trại đến miền
đất thứ ba. Kẻ ở, người đi, mang theo những kỉ nệm khó quên
tháng năm tỵ nạn.
**
Tiếp cận, thưởng thức
một tác phẩm không hề phụ thuộc vào bề dày, số trang, dài, ngắn
mà phụ thuộc nội hàm chứa đựng tác phẩm mang lại. Đó có lẽ là lẽ
sống, sức sống của bản văn. “Từ Ḥn Khói Tôi Đi”, bản trường ca
tự truyện, một hành tŕnh đi tới sự nghiệp tṛn đầy. Gia đ́nh,
cha mẹ là thầy thuốc, bốn người con sau khi ổn định trên đất
hứa, cũng đă quyết tâm học hành, tiếp nối nghề nghiệp theo bậc
sinh thành.
Quả xứng đáng gia
đ́nh biểu tượng thành đạt hiếm hoi trong cộng đồng tỵ nạn.
Những ghi nhận qua
hồi kư đă minh chứng nhân sinh quan tác giả về đời người, t́nh
yêu thương trước khốn đọa, hệ lụy của tha nhân, đồng loại.
Đó cũng chính là bài
thơ nhân ái và thái độ sống hướng thượng của người thầy thuốc.
Tư duy khoa học, nhăn quan hiện thực đă hơn một lần xao động tâm
hồn nghệ sĩ. Cảm xúc lăng mạn khi cứu vớt một cây bầu héo úa
trôi theo ḍng máng nước, thầy thuốc cưu mang nó để nó được hồi
sinh (trang 500).
Triết lư sinh tồn,
t́nh yêu cuộc sống luôn được ca ngợi là đẹp – gọi là đẹp – những
ǵ bật ra từ con tim thuần hậu, chân thành.
Có người cho rằng:
“tác phẩm là tấm giấy chứng nhận sự hiện hữu của tác giả giữa
đồng loại”. Đúng vậy, viết là phải có điều ǵ để truyền tải, để
nói lên đặc thù và sắc thái riêng.
Tác giả Lê Ánh, một
tính cách, một tâm hồn, đă viết bằng chân t́nh, dung dị mà trung
thực, không tính toán, thêm bớt, từ khởi đầu trang đến điểm hẹn
sáng tươi, b́nh yên thực tại.