Buổi
trưa Lụa kho cá rô đồng. Món kho bỏ nhiều ớt, cay xé lưỡi.
Bữa cơm nhà dì thường là vầy: một món canh ít nước thôi,
một món kho càng nhiều ớt càng tốt. Hôm nào không có ớt,
bữa cơm nhạt nhẽo vô vị, dượng buông đũa sớm. Lụa vốn ít
nói lại càng ít nói hơn.
Hoài vô ở nhà dì đã được ba tháng. Những bữa cơm đầu
tiên, nước mắt Hoài cứ trào ra. Cay quá. Hoài nhớ món kho
của má, ngòn ngọt chớ không cay. Hoài tự nhủ: "Thì nếm trải
cho biết, mùi đời cũng cay đắng vậy thôi". Riết rồi quen. Quen
cả không khí trong nhà, cả tính tình của mỗi người. Hoài
không phàn nàn gì.
Nhà có bốn người: dì, dượng, thằng Duy - đứa con trai độc
nhất, và Lụa - Lụa gọi dượng của Hoài bằng cậu. Giờ thêm
Hoài nữa là năm. Năm người ngồi quanh chiếc bàn tròn, mỗi
người một tính khí nhưng có vẻ thân mật. Dì, dượng, thằng
Duy đều tốt cả; riêng Lụa thì ít nói, suốt ngày cứ lầm lầm
lịt lịt, khó mà đoán được Lụa đang nghĩ gì. Năm ấy Lụa
chuẩn bị thi vào đại học Mỹ Thuật thì má mất, ba vội vã đi
bước nữa. Cái chết của má Lụa có nhiều uẩn khúc. Lụa
thương má, đau đớn và giận ba. Nhiều lúc, Lụa như rơi vào
những cơn trầm uất dài dằng dặc.
Hoài ở chung với Lụa. Căn phòng hai người trông ra vườn
và thông với nhà trên bằng một cánh cửa đơn có treo bức mành
sáo vẽ hình hai con cò. Phòng chỉ có một ô cửa kính đón
ánh sáng từ vườn vào. Đứng trong phòng có thể nhìn thấy
khoảng vườn xanh xanh, đỏ đỏ và mấy trái xoài to tròn treo
lủng lẳng bên ô cửa. Căn phòng có vẻ tù mù, đùng đục.
Hoài hay đem sách vở ra phòng khách học, còn Lụa cứ
ngồi lì trong phòng cặm cụi vẽ. Đầu Lụa cúi thấp xuống tờ
giấy, mái tóc lòa xòa xuống trán, xuống gò má trắng lầm
rầm những sợi gân xanh. Những bức vẽ của Lụa khó hiểu, màu
sắc lòe loẹt. Thấp thoáng sau những vệt màu ấy, Hoài nhận
ra một vạt áo đỏ và một gương mặt nhàu nhĩ, đau đớn.
Thỉnh thoảng Hoài thấy Duy nói chuyện với Lụa. Hai người
bàn về màu sắc, hoa cỏ. Duy còn nhỏ mà sâu sắc. Cậu bé ấy
đã đem đến những mảng sáng hiếm hoi trong khoảnh khắc những
nụ cười của Lụa. Không dưng Hoài cảm thấy buồn buồn. Buồn
cho mình, buồn cho Lụa và buồn cho tất cả những ai sống trên
cõi đời này!
Một hôm Duy mang về mấy củ sen với những cọng rễ dài đen
đủi. Lụa đem ra vườn, cặm cụi hốt bùn vào một chậu đất nung
bự, rồi đặt chúng vào đó. Sau những giờ bếp núc mệt mỏi,
Lụa thường ra đứng bên chậu đất trầm ngâm, mắt mơ màng như
chờ đợi điều gì ở một cõi xa xăm.
Hoài ít khi nói chuyện với Lụa. Những lúc vẽ, hay những
lúc ngồi trầm tư, dẫu có hỏi Lụa cũng không trả lời. Dì,
dượng bảo để cho nó yên, nó chịu khổ nhiều rồi. Ở đời có
những nỗi đau đớn đến lịm cả người như thế. Hoài băn khoăn
lắm. Rồi Hoài cũng quen, đợi những lúc Lụa tỉnh táo mới
trò chuyện. Nhưng Lụa đang nghĩ gì? Đang hướng về đâu? Hoài
không sao biết được. Thế giới riêng của Lụa bí ẩn quá, sâu xa
quá!
Dượng hay mua màu về cho Lụa. Những thứ bột màu xanh,
đỏ, trắng, vàng gói trong những bọc nylon con con được Lụa
trút vào những chiếc lọ bé tí sắp một dãy dài trên ngăn
kệ. Lụa pha màu rất tài. Một cây cọ bé, ít keo dán, vài
mẩu bột màu, Lụa đem pha có đến hàng chục màu khác nhau,
trông lạ lẫm, vui mắt.
Từ ngày ở chung với Lụa, Hoài hay lấy khăn ướt lau sạch
những vệt màu loang lổ trên bàn, trên nền. Lụa định ngăn lại,
định nói một điều gì đó, nhưng không hiểu sao lại thôi.
Những khi nhà có khách, Hoài vào phòng nằm đọc sách
cạnh ô cửa kính. Thứ ánh sáng đục mờ ấy khiến mắt Hoài
mỏi đờ, khó khăn lắm mới nhìn rõ những con chữ.
Một đêm, Hoài chợt thức giấc vì đèn trong phòng bỗng
dưng được bật sáng. Lụa đang ngồi tất bật pha màu. Mấy chiếc
đĩa con đựng đầy những thứ nước đặc sền sệt màu xanh, vàng,
đỏ. Hoài ngạc nhiên khi Lụa cầm một cây cọ lớn quét mạnh
một đường dài lên ô cửa kính. Nhát quét để lại một vệt màu
đỏ tươi chạy dài từ giữa ô cửa kính đến gần mép. Thêm một
vài nhát mạnh, dứt khoát nữa, bố cục bức tranh hiện trên ô
cửa. Rồi Lụa say sưa vẽ. Cô đổi hết cây cọ màu vàng rồi lại
sang cây cọ màu đỏ, màu xanh ... Đến sáng thì bức tranh hoàn
thành. Hoài thấy thấp thoáng trong đó một chiếc áo đỏ, một
khuôn mặt đau đớn, nhàu nhĩ, khổ sở đến quằn quại. Hoài
rùng mình, run rẩy trước cảnh tượng ma quái ấy...
Sáng ra Hoài cảm thấy đầu nặng trĩu, váng vất vì mất
ngủ, nhưng cô không hề phàn nàn. Hoài lờ mờ nhận ra một nỗi
khổ, ngấm ngầm và ấp ủ lâu ngày đến ung nhọt trong lòng
Lụa. Để rồi một đêm, cái nhọt ấy đã chín, vỡ bung ra, đau
đớn. Tác phẩm đó thật xuất thần, nó là tâm huyết, là cả
một phần hồn của Lụa. Hoài nghe lòng mình đau buốt, đắng
cay.
Lên lớp, Hoài ngủ gà ngủ gật. Cô bạn ngồi bên lo lắng:
- Hoài đi làm ca đêm à?
Sau đêm ấy, Hoài để ý thấy Lụa không vẽ nữa. Lụa cất
tất cả bột màu, keo, cọ vào ngăn tủ. Nhiều lúc đang nấu
nướng bẩn tay, trên bụng còn cột một cái tạp dề, Lụa ghé
vào phòng, trầm ngâm đứng ngắm bức tranh, khóe mắt rưng rưng.
Từ ngày bức tranh hiện diện trên ô cửa kính, Hoài không
còn thói quen đứng tần ngần nhìn ra vườn nữa. Tuy thế Hoài
vẫn có cảm giác rằng cỏ đang mọc nhiều ở vườn hoa. Sau vài
trận mưa dầm, mấy trái xoài lủng lẳng bên ô cửa cũng đua nhau
vàng mọng rồi. Nhìn bức tranh toàn màu lạnh, nổi bật lên
một vệt đỏ nóng bỏng, Hoài cảm thấy nó rờn rợn, nó gai gai
làm sao ấy. Chợt một hôm Hoài thảng thốt nhận ra gương mặt
đau đớn trong bức tranh kia sao mà giống Lụa đến thế. Giống y
hệt. Hoài bỗng rùng mình. Trời ơi, sao chung quanh Hoài cái
gì cũng bí ẩn, cũng chứa đựng một cái gì thật lạ lùng,
ghê rợn không thể gọi thành tên thế này?
Đêm đêm Hoài bắt đầu mộng mị. Hoài thấy gương mặt kia
đang đau đáu nhìn mình. Hai con mắt sao mà buồn thê thảm. Cái
buồn như tràn ra khỏi vành mi, chảy ngập khắp cả căn phòng.
Hoài chới với, nghẹn thở trong nỗi buồn tột cùng ấy và
thét lên kinh hãi. Tỉnh dậy, Hoài thấy trán đẫm mướt mồ hôi,
tay chân đau nhức như vừa bị giần một trận tơi tả. Và, Lụa
ngồi đấy tự lúc nào, nhìn Hoài lo lắng nhưng tuyệt nhiên
không hỏi han gì.
Đã giữa mùa mưa, bầu trời lúc nào cũng u ám kỳ lạ. Căn
phòng Hoài ở vì thế cũng tối thêm, ngột ngạt thêm. Ô cửa
kính không còn hắt vào thứ ánh sáng đùng đục, lạnh lẽo
nữa. Những khi ngoài trời có nắng, căn phòng lòe loẹt thứ
ánh sáng xanh xanh đỏ đỏ ma quái toát ra từ ô cửa kính, từ
chính bức tranh ấy.
Thỉnh thoảng trời lại đổ mưa. Những cơn mưa giữa mùa làm
cho cây cỏ xanh hơn, trời mát mẻ hẳn ra. Đất đai hoa lá như
tỏa ra một thứ hương thơm nhè nhẹ, dễ chịu.
Rồi một lần, khi dọn dẹp ngăn sách cho Lụa, Hoài bắt
gặp những trang nhật ký viết dở của mẹ Lụa. Đó là những
dòng đẫm nước mắt của người đàn bà bệnh tật bất hạnh.
Tiền bạc cứ dần đội nón ra đi mà hy vọng sống tan vỡ, bà
đã tìm đến cái chết. Những dòng sau cùng, dường như là
những dòng bà để lại cho con gái, lời da diết, day dứt: "Má
ôm hôn con gái. Mong con ở lại với đời nhiều may mắn và hạnh
phúc hơn người mẹ xấu số này. Thương con lắm, nhưng hãy hiểu
cho má, con ơi ..."
Hoài thấy rụng tời. Có cảm giác như mình cũng sắp rơi
vào một cơn trầm uất. Nhưng Hoài mau chóng trấn tĩnh lại và
đặt quyển nhật ký vào chỗ cũ. Ngắm lại bức tranh, Hoài
lặng người đi vì khuôn mặt đau khổ ấy. Cái đau khổ như lan
tỏa khắp căn phòng. Lần đầu tiên Hoài đọc được ý nghĩa của
bức tranh, của những màu sắc "lòe loẹt" từng làm cô sợ hãi.
Thỉnh thoảng Hoài lại trò chuyện với Lụa, về hoa lá,
về cỏ cây, về tất cả những gì mà Lụa có thể tiếp chuyện.
Cô dần thấy yêu mến người bạn lạ lùng này.
Hôm ấy mưa tầm tã. Lụa và Hoài cùng ngồi nhìn ra ô cửa
kính. Cả hai thả hồn theo những dòng suy nghĩ riêng.
Bỗng ... choang!
Ô kính vỡ toang trước ánh mắt ngơ ngác của cả hai. Một hòn
đá khá to rớt đánh rầm xuống nền cùng tiếng loảng xoảng
của kính rơi. Hoài nhìn ra, thấy mấy đứa nhóc hốt hoảng
nhảy qua hàng rào chạy ào vào màn mưa bất tận. Dưới đất,
mấy trái xoài rụng nằm lăn lóc, đầm đìa trong nước.
Hoài quay lại, kịp nhận ra nơi mắt Lụa một vẻ ngạc nhiên
tột độ. Lụa đang nhìn đăm đăm vào ô kính vỡ. Căn phòng ngập
đầy ánh sáng. Mắt Lụa cũng ngập đầy ánh sáng ấy. Lụa nhìn
rất lâu như thế và bỗng bật cười reo lên hân hoan:
- Ô, hoa nở rồi!
Hoài ngạc nhiên, quay nhìn ra vườn. Cây sen trong chậu nở một
bông màu hồng nhạt. Dường như nó đang nhún nhảy reo vui cùng
những hạt mưa.
Hoài nhìn hoa rồi quay vào nhìn Lụa. Lần đầu tiên cô thấy
khuôn mặt Lụa tươi sáng, rạng rỡ như vầy.
Thùy Giang
10//2018