Tháng 4 năm 1969 , tôi
chính thức về dạy học tại Trung Tâm Giáo Dục Hàn Thuyên Nhatrang. Ngôi
trường do người Pháp chuyển giao cho Việt Nam từ Colle`ge Francaise de
Nhatrang , trường toạ lạc trong một khu đất rộng lớn: phía Đông giáp
tường với khuôn viên toà Tổng Giám Mục Nhatrang, Tây giáp đường Trần
hưng Đạo, Nam giáp đường Nguyễn Tri Phương ( Nguyễn Chánh , hiện nay),
Bắc giáp đường Bá Đa Lộc (nay là đường Lư tự Trọng ). Nhà trường chịu
sự quản lư trực tiếp của Tồng Nha Trung , Tiểu học và BDGD Giáo dục
Sài G̣n, không trực thuộc Sở Giáo dục tỉnh Khánh Hoà. Học sinh vào
trường này phải qua sơ tuyển từ lớp Một và cũng từ lớp này, môn tiếng
Pháp do người Pháp giảng dạy. Đa số học sinh của trường là con em của
các gia đ́nh trí thức, giàu có và thế lực tại Nhatrang, nên cũng có
người ví von đây là trường “Quốc Tử Giám’’của tỉnh Khánh hoà. mặc dù
bề thế, qui mô và tiếng tăm chưa thể sánh với trường Trung học Vơ Tánh
và trường Nữ Trung học Huyền Trân Nhatrang. Ngày tôi về, trường mới
tiếp nhận một phần của trường Pháp và cũng chỉ mới có từ lớp 1 đến lớp
9. Mấy năm sau, mới tiếp nhận hết cơ sở của Pháp và mới có đến lớp 10.
Chuyện về Hàn Thuyên của
tôi cũng không thuận buồm xuôi gió lắm: Tháng 8 năm 1964, ra trường
Sư phạm, nhận nhiệm sở tại Ty Tiểu học Bảo lộc (B`Lao ). Dạy học tại
miền cao nguyên sương mù đất đỏ này gần 3 năm, th́ được làm đơn xin về
quê hương Khánh hoà. Nhưng chiến sự TẾT Mậu Thân nổ ra ác liệt;quân sự
cần người hơn dân sự, thế là tôi phải vào lính trước khi được về quê
dạy học. Vào quân trường vài ngày th́ được tin nhà giáo chỉ học quân
sự 9 tuần rồi về dạy học;lệnh này tạo ra một loại quân nhân ‘’lính
không ra lính mà quan cũng chẳng ra quan’’ và lệnh này cũng không có
hiệu lực hồi tố đối với những ai lỡ nhanh chân vào trại nhập
ngũ, nhưng chúng tôi cũng được phép làm đơn xin về dạy học.
Khi c̣n đang ở quân
trường Đồng Đế Nhatrang, tôi đă nhận được Sự Vụ Lệnh số 1647 ngày
18-7-1968 của bộ Giáo dục, thuyên chuyển tôi về TTGD Hàn Thuyên
Nhatrang, theo đơn xin về Khánh hoà của tôi trước khi vào lính. Sau đó
bộ Giáo dục c̣n ra Nghị định số 2079, hợp thức hoá về phương diện hành
chánh việc thuyên chuyển về Hàn Thuyên của tôi.
Sau 6 tháng đỗ mồ hôi
tại thao trường, tôi được trả về cho giáo dục, theo đơn xin, nộp lúc
mới vào quân trường. Việc trả vể cho giáo dục những nhà giáo đă bị vào
lính một cách ồ ạt, lúc ấy gọi là “biệt phái’’. Chính hai từ”
Biệt phái’’, được hiểu là phái làm công tác
đặc biệt ǵ đó, mà tôi phải một phen vất vă lư giải với
những truy vấn của AN NINH ngành Giáo dục, sau 1975. Cầm SVL về Hàn
Thuyên, đến tŕnh diện ban giám đốc của trường và bị từ chối với lư do
:Đă lâu không nhận nhiệm sở nên bộ Giáo dục đă có NĐ 773 thu hồi NĐ cũ
và trả tôi về Bảo lộc. Sự thể đến như thế, khiến tôi phải vào Saigon
xin gặp trực tiếp Đổng Lư Văn Pḥng bộ giáo dục-Người thay mặt Bộ
Trưởng giải quyết những vấn đề nhân sự-Đưa đơn và tŕnh bày nguyện
vọng. Đổng lư VP bút phê vào đơn và bảo tôi mang đến pḥng Nhân Viên
của bộ. Một tháng sau, tôi nhận QĐ mới về lại Trung tâm Giáo Dục Hàn
Thuyên Nhatrang. Như đă nói trường này không thuộc quyền quản lư của
Sở Giáo dục Khánh hoà, nên về đây dù dạy ở bậc học nào cũng không phải
xa thành phố biển Nhatrang thân thương, nơi mà tôi đă sống qua bảy năm
để học tập, trao dồi Trí, Đức tại trường TRUNG HỌC VƠ TÁNH , ngôi
trường bậc nhất của miền Nam Trung bộ thời bấy giờ. Tôi đă đấu tranh
rất chính đáng cho quyền lợi có được của ḿnh, sau khi
đă hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ và bổn phận
của một công dân. Phải thấy rằng, hệ thống hành chánh và việc quản lư
hệ thống này rất chặc chẽ từ Trung Ương đến địa phương;mọi đơn từ, bất
luận gởi từ đâu, đều được giải quyết và gởi Quyết Định đến cho chính
đương sự dù người đó đang ở đâu (đang phục vụ trong quân đội hay trong
đơn vị dân sự), những ǵ hợp lư đều được giải quyết nhanh gọn;không có
chuyện cấp dưới từ chối thi hành lệnh của cấp trên. Đó là ưu điểm của
tổ chức và sự trong sáng của nhân viên thừa hành. Mọi người làm đúng
nhiệm vụ đươc giao, không chèn ép, không viện cớ này khác để làm chậm
trể sự việc, để ṿi vĩnh tiền bạc…Thật là một nền hành chánh tuyệt
vời!May mắn, suông sẻ, thành công của tôi (dù lúc khởi đầu có chút trở
ngại) phần quan trọng nhờ sự trong sáng tuyệt vời này.
Tôi đỗ Tú Tài 2 khoá
ngày 23 -7-1969, phải bảy năm sau mới đỗ Tú Tài Toàn Phần, bằng
cả thời gian bảy năm học trường Trung học Vơ Tánh. Đă đi
làm, có vợ con, được như thế là cả một sự cố gắng bền bĩ, một nổ lực,
một ư chí vương lên của bản thân. Văn bằng Tú Tài toàn
phần là ch́a khoá mở nhiều cánh cửa cho con đường tiến thân về sau mà
tôi hằng ấp ủ, kỳ vọng . Từ lâu, mong ước của tôi là dạy bậc Trung
học, có Tú tài 2, tôi dự thi Khả Năng Sư Phạm Trung Cấp khoá ngày
16-3-1971 và được công nhận trúng tuyển bằng NĐ số 1830-GD/KTh2/NĐ
ngày 27-9-1971 của bộ Giáo Dục, v́ là kỳ fhi chuyển ngạch công chức.
Với bằng Tú Tài ban B (Ban khoa học Toán) và KNSP trung cấp ban khoa
học, tôi được chuyển từ Giáo Học Bổ Túc(GHBT) hạng 2 sang ngạch Giáo
Sư Trung học Đệ Nhất Cấp (GSĐIC) hạng 2, bằng NĐ số 2383-NĐ/NV/2N/NĐ
ngày 14-12-1971. Ngay sau đó tôi được điều lên dạy toán lớp 9 và hoá
lớp 8. Ngày tôi mới về Hàn Thuyên, nhà trường xếp tôi dạy lớp Ba, chỉ
gần 2 năm sau tôi đă có thể dạy toán đến lớp 9, lớp cuối cấp cùa bậc
Trung học Đệ Nhất cấp lúc bấy giờ. Với Văn bằng Tú tài 2 ban Toán, th́
việc giảng dạy môn toán lớp 9 không có vấn đề ǵ. Đến ngày 01-7-1974
tôi đươc thăng GSĐIC hạng 1, Chỉ Số Lương (CSL) lúc bây giờ là 500.
Ước nguyện của tôi đă
thành hiện thực, dạy Toán, Lư, Hoá các lớp 8, 9 trường Hàn Thuyên là
một ước mơ mà không phải ai, cho dù có thế lực hay tiền bạc, cũng có
thể dễ dàng đạt được. Nhưng. . Tôi, tôi là ai? Tôi là ǵ ? Mà
đạt được như thế… Thực sự, tôi chỉ là một học tṛ nghẻo ở nông thôn,
mồ côi cả ba lẫn mẹ, từ lúc nhỏ, được sự cưu mang, bảo bộc của các
chị, các anh rễ . Cố gắng qua các lớp ở trường làng. trường quận,
trường tỉnh-là trường Trung học Vơ Tánh Nhatrang, trường Sư Phạm Qui
Nhơn, dạy học ở vùng cao sương mù, đất đỏ. . Vậy tiền bạc chẳng có mà
thế lực cũng không . Có chăng là sự cố gắng bền bĩ, một ư chí vương
lên mạnh mẽ, thêm vào đó là may mắn của số phận, sự lành mạnh
của môi trường sống. Học sinh Hàn Thuyên đa số là con
cháu của các trí thức như Bác sĩ, luật sư, giáo sư, các thương gia
giàu có, các quan chức cao cấp quân sự cũng như dân sự trong thành
phố, trong tỉnh, nhưng không v́ thế mà các vị ấy thiếu tôn trọng thầy
cô dạy con cháu ḿnh. Cách thể hiện ḷng tôn kính trong giao tiếp, ứng
xử với chúng tôi, chứng tó tŕnh độ tri thức của một lớp người có văn
hoá. không vơ biền.
Có bằng Tú Tài 2, có
cuộc sống ổn định, vị trí trong xă hội cũng được nâng lên với danh
xưng Giáo Sư Trung học Đệ Nhất Cấp;tôi bắt đầu ghi danh học Luật tại
trường Đại Học Luật Saigon. Mọi thủ tục như ghi danh, làm thẻ sinh
viên, nhận bài (cours), nhận chứng chi thi đậu, báo tin kết quả thi
đậu, ngảy giờ thi viết, ngày thi bút vấn (sau khi đỗ thi viết )…Tôi
đều làm giấy Uỷ Quyền cho Nguyễn Phú Cường, con Anh chị Ba, đang học
Đại học Phú Thọ (sau này là Đại học Bách Khoa). Mỗi kỳ nghỉ hè, tôi
làm đơn xin phép trường Hàn Thuyên vào Saigon dự thi.
Thửa ấy, những công
chức ở tỉnh muốn học thêm bậc đại học chỉ có thể ghi danh học Văn Khoa
hay Luật khoa, không học các khoa khác v́ phài qua thi tuyển, phài có
mặt trên giảng đường, phải bảo đảm đủ số giờ thực hành (gọi là TP=
Travail Pratique).
Ngay năm đầu tiên, tôi
đậu chứng chỉ thứ nhất Cử Nhân Luật khoá ngày 02-8-1971. Khoa Luật
không có năm dự bị như Văn khoa. Sinh viên năm thứ nhất rất đông và đủ
thành phần; học sinh, giáo chức, công chức các ngành, sĩ quan quân
đội. . . Nhiều người thi hoài cũng không qua được nâm thứ nhất, vậy mà
ngay năm đầu tôi đă đỗ. Xem như một khởi đầu tốt đẹp. Khoá ngày
15-6-1973, đỗ chứng chỉ Thứ Hai, tôi tiếp tục học năm Thứ Ba, bắt đầu
năm này, sinh viên được chọn một trong ba chuyên ngành: Dân luật, Kinh
Tế và Quốc tế Công Pháp. Tôi chọn học Dân Luật. Với kế hoạch mỗi hai
năm lấy được một chứng chỉ, c̣n hai chứng chỉ nữa là đủ lấy bằng Cữ
nhân Luật, không phải là quá khó. Chuyên hoàn tất được một văn bằng
Đại học, có thể nói là trong tầm tay và cũng là mong ước của tôi khi
c̣n ở bậc Trung học. Tôi hy vọng, sau khi lấy bằng Cữ Nhân Luật, sẽ
tập sự Luật sư, ở Nhatrang, việc này không khó, hoặc thi vào ngạch
Thẩm Phán Quốc Gia, hay Thanh Tra Trung học; hoặc chí ít cũng chuyển
lên ngạch Giáo Sư trung học Đệ Nhị Cấp. Con đường tiến thân đang rộng
mở và dầy hứa hẹn phía trước, với tuổi đởi mới 33, độ tuổi c̣n sung
măn . Nhưng “lực bất ṭng tâm’’, chưa kiệp dỗ chứng chỉ thứ ba, th́
biến cố tháng 4/1975 xăy ra, làm đăo lộn tất cả mọi thứ ở Miền Nam,
tôi bị cuốn theo ḍng thác của biến cố ấy, và tiêu tan tất cả
mọi hy vọng thăng tiến học vấn cũng như nghề nghiệp. May mà c̣n giữ
được mạng sống và sự toàn vẹn của gia đ́nh với bảy đứa con, đứa con
đầu chưa tṛn 10 tuổi.
Trung Tâm Giáo Dục Hàn
Thuyên là một trong những Trung Tâm trên toàn miền Nam, do người Pháp
chuyển giao từ các trường Trung học Pháp (Colle`ge Francaise). trường
theo một qui chế đặc biệt: chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Tổng Nha Giáo
Dục Saigon. không phụ thuộc Sở giáo dục của tinh, trưởng được đi6ù
hành bởi một Giám Đốc và hai phụ tá Giám đốc , một cho bậc Tung học và
một cho bậc Tiểu học . Học sinh vào lớp Một phải qua ṿng sơ tuyển,
môn Pháp văn được dạy từ lớp Một, do chính người Pháp giảng dạy. Chính
v́ thế mà giới trí thức, giàu có và có thế lực thích cho con cháu vào
đây học, cũng v́ thế mà trường mang danh là “Quốc Tử Giám’’ của tỉnh
Khánh hoà, như đă nói trên.
Trung Tâm giáo dục Hàn
Thuyên, tuy vậy cũng chỉ tồn tại được khoảng 8 năm (1967-tháng 4-1975
). và tôi cũng chỉ dạy ở đây 6 năm (1969-tháng 4-1975 ).
Nhatrang, ngày 21 tháng
5 năm 2011