|
Thi ca và sự huyền bí:
Hội ngộ cùng nhà thơ
Cung Trầm Tưởng lần thứ 5.
Việt
H ải,
Los Angeles

Nguồn gốc của thơ triết học (philo-poésie) có thể được là cái gọi là
Presocratics, những nhà tư tưởng ở thời Hy Lạp cổ đại, đă tham gia
vào nguồn gốc của triết học và từ giữa thế kỷ thứ năm cho đến thế kỷ
thứ tư trước Công nguyên. J. - C., nghĩa là đa số thức giả này hiện
diện trước thời Socrates. Parmenides, Heraclitus, Empedocles và
Democritus là những đại diện tiêu biểu nhất của hiện tại nơi mà thi
ca và triết học không thể tách rời ra. Một mặt th́ các nhà tư tưởng
khác của thời đại Greco-Roman, nơi mà cho chúng ta thấy rằng thi ca
là mối liên kết khá chặt chẽ hoặc trong ư nghĩa trung gian giữa tôn
giáo và triết học. Họ chọn câu thơ Homeric, câu chuyện về Hesiod
cũng như Horace cao quư trong Odes (Ode xuất phát từ "aeidein" của
Hy Lạp, có nghĩa là ca hát hoặc cầu kinh kệ, và thuộc về truyền
thống cổ xưa), vốn mang tính đa dạng của thơ trữ t́nh. Ban đầu Ode
được kèm theo phần âm nhạc và khiêu vũ. Đấy là tương quan cho khái
niệm thơ triết thuở tiên khởi của philo-poésie.





Mùa Thu Paris - Cung Trầm Tưởng - Phạm Duy - Sĩ Phú:
https://www.youtube.com/watch?v=WfGcohNnGX4
Theo Cung Trầm Tưởng, đă có nhiều bài thơ mà ông sáng tác gần đây
phản ánh bằng cách nào đó và do một ư nghĩ nào đó là hành động rất
bí ẩn. Một ư nghĩa khác, thơ "mới" của ông là một cách để gợi lên sự
đa dạng của người khác và tất cả các lănh vực pha trộn giữa Đông và
Tây,... Liên quan đến sự đóng góp đầy chất thơ của Rabindranath
Tagore, Kahlil Gibran, Charles Baudelaire, JP Sartre (tác giả truyện
hư cấu giả tưởng của định mệnh kiếp sau, Les jeux sont faits),...
Trong cuộc gặp gỡ t́nh bạn thân thiện với nhiều thành viên của câu
lạc bộ Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian, ông đă đồng ư rằng
phong cách thơ mới của ḿnh hôm nay mang vẻ bí ẩn về các vấn đề của
t́nh yêu, thiên nhiên, con người, và của tâm linh..
Bàn về thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng.
Thơ Tagore và thơ của Cung Trầm Tưởng có điểm tương đồng về những
triết lư thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống, hạnh phúc và
t́nh yêu. Điểm nổi bật thấm đẫm chất văn trong tư tưởng của Tagore
chính là thái độ đề cao con người. Triết học của Tagore là triết lư
nhân sinh, lấy nền tảng là t́nh yêu thương mănh liệt đối với con
người. Ông phản ánh cuộc sống khốn cùng của những người dân nô lệ Ấn
với niềm cảm thông sâu sắc, gióng lên tiếng nói đấu tranh đ̣i tự do
và cuộc sống hạnh phúc cho con người. Có thể nói, với Tagore, được
sống trên đời thực sự là niềm vui cao quư khi ở đó chứa chan t́nh
yêu giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.
Trong niềm vui để sống, Thượng Đế là đấng quyền năng thần bí xa xôi.
Nhưng đối với R.Tagore, thượng đế không ở đâu xa lạ mà là nguồn an
ủi cho ta yên vui, T agore sống với sự lạc quan, v́ để làm nguồn an
ủi, nó là t́nh yêu thương đă mang lại cho con người khát vọng và
niềm vui sống. Trong tổ ấm t́nh yêu thương của chúng ta hăy lấy sắc
màu, âm thanh, hương thơm, ấp ủ linh hồn”, những ư tưởng yêu thương,
yêu sống và lạc quan lăng đăng trong 3 thi phẩm gồm Lời dâng (Gitanjali),
Tâm t́nh hiến dâng (The Gardener) và Tặng vật (Lover's Gift).
C̣n về nhà thơ Kahlil Gibran:
Nhiều người c̣n nhớ câu nói của ông là "Cám ơn đời mỗi sớm mai thức
dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương". (To wake at dawn with a
winged heart and give thanks for another day of loving.)
Trong tác phẩm Uyên Ương Găy Cánh - Broken Wings của nhà văn, nhà
thơ, triết gia, họa sĩ người Mỹ gốc Lebanese - Kahlil Gibran, cốt
truyện đại để là: "T́nh yêu là kết quả của mối liên hệ t́nh yêu
thánh thiện, platonic, không xác thịt, tác giả cho vai người nữ là
Selma. Như Cung Trầm Tưởng, sự mộng ảo Gibran đă mô tả nhan sắc
Selma như một nàng tiên nữ kỳ bí, khi ẩn khi hiện. Đôi t́nh nhân tuy
yêu nhau nhưng phải chấp nhận kết quả cay đắng, họ phải chấp nhận sự
chia ĺa nhau, chôn kín mối t́nh sầu vừa chớm nở nhưng đă trở thành
thiên thu. Selma vâng lời cha đi lấy người mà nàng không yêu, v́
hiểu rằng cha nàng phải làm điều đó để tránh những thảm họa đổ xuống
cho gia đ́nh. Mối t́nh cao đẹp ấy cuối cùng đă kết thúc bằng cái
chết của Selma dù có mang. Chỉ c̣n lại chàng trai trẻ khóc than cho
số phận trước ngôi mộ của người chàng yêu thương. Người con gái ấy
đă rời bỏ kiếp sống khổ đau hiện tại để mong được tái sinh trong một
cuộc đời khác cùng với đứa con vừa lọt ḷng mẹ, mang theo cả t́nh
yêu của đời nàng. Cùng với cái chết của nàng, Gibran đă chôn vùi
luôn cả trái tim của ḿnh. Một mối t́nh khởi đầu thật đẹp và kết
thúc đầy nước mắt : Đó là mối t́nh chia ly tan vỡ, và đă gẫy cánh".
Nào với Thơ Baudelaire
Bài L’Albatros (Chim hải âu), một trong những bài thơ nổi tiếng của
Baudelaire, kết thúc bằng đoạn thơ sau đây :
"Người thi sĩ như (chim hải âu) bay vương trên chín tầng mây
Chim bay trong băo táp và nhạo cười kẻ dương cung bắn ;
Bị đày xuống mặt đất giữa những tiếng la ó,
Hai cánh khổng lồ ngăn trở bước chân chim."
Đó là h́nh ảnh của Baudelaire, cũng là h́nh ảnh của Cung Trầm Tưởng,
v́ người thi sĩ bị đày xuống trần thế say yêu và say thơ, họ rất
giống nhau. Baudelaire đă sống kiếp lưu đày như thế nào ? Đă đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật ra sao ? Thi phẩm Les Fleurs du Mal của ông
có ảnh hưởng nhiều đối với thi ca Pháp và cũng như thi ca Việt Nam,
mà Cung thi nhân vốn thích, tôi chia sẻ với ông điểm này.





Xét về thơ tiêu biểu của thi sĩ Cung Trầm Tưởng ghi nhận trong thi
tập "Cung Trầm Tưởng: Một hành tŕnh thơ 1948-2018". Nay tôi xin cô
đọng lại chỉ nói về 2 bài thơ tiêu biểu trong loạt "thơ mới" của ông
khi nhà thơ từ bỏ lối t́nh thơ ướt át như loại Chưa Bao Giờ Buồn Thế:
Hai bài mà tôi đàm đạo nhiều giờ cùng thi sĩ CTT với khá nhiều chi
tiết lư thú là bài: "Núi và Suối Một Huyền Sử". Đại để nhà thơ quen
một bạn đồng tù ở trại Hầm Tân (tức trại trại Z30D, thuộc tỉnh B́nh
Thuận), gần trại có suối Nước Trong, có rặng núi Mây Tào. Chuyện kỳ
tích như thần thoại Hy Lạp cổ xưa của thế kỷ hoàng kim Odysseus, có
truyện t́nh lâm ly bi ai như lọai Romeo và Juliet. Chuyện về người
con gái Ngọc Tiên và Cung Thi Nhân được thi vị hóa qua kỳ tích
Ulysse gặp Pénélope như CTT đă sáng tác một trường thi dài 5 trang
sách.
Bài thi ca thứ #2 mang tên "Phồn Thực Ca", tựa đề bài thơ dài 3
trang sách nói về yếu tố phồn tức phồn thịnh, phồn sinh, thiên nhiên
ph́ nhiêu, được ưu đăi, ẩm thực dồi dào,... Thi nhân tâm sự ngày c̣n
trẻ ông bay công tác về miền tây tỉnh Phong Dinh Cần Thơ, thi nhân
đă gặp một cô giáo,. Cô có nước da trắng tuyệt trần, mũi cao vút,
làn tóc dài như sông Cửu,.. Nàng là biểu tượng cho gái miền Nam,
vùng đất kết hợp bởi 2 sắc dân, 2 nền văn minh cổ Champa và Khmer (đất
Phù Nam, Óc Eo), Hai đế quốc này khi xưa chịu ảnh hưởng các nền văn
hóa Brahman (Bà-la-môn) và Bangla (Ấn Bengale). Phải kể Champa (ảnh
hưởng hệ phái Muslim Hồi từ gốc Mecca, trong khi Khmer chịu ảnh
hưởng Ấn giáo nền văn minh Phật giáo. Vào thế kỷ 14 Chiêm quốc gây
rối nước Đại Việt xứ ta vua Trần Thánh Tông (1240 – 1290), đem đại
binh dẹp loạn, Chiêm quân vẫn phá phách, gây rối đất ta, Khi vua Chế
Bồng Nga bị quân ta sát hại tại mật trận, hai vị vua hai nước Việt
Chiêm đời sau là vua Trần Nhân Tông (1258 – 1308), và vua bên Chiêm
quốc là Chế Mân (1288 - 1307) được ḥa hoăn hơn, sự liên hệ trở nên
thân thiện và nồng thấm hơn, bên vua bên ta đem gả ái nữ đẹp tuyệt
trần cho Chiêm vương. Chế Mân tôn vinh Huyền Trân công chúa là hoàng
hậu Paramecvari. Khi Champa và Đại Việt đă sống yên vui, ḥa thuận
trong bang giao giữa hai nước. Chế Mân đă nhượng đất đai, dâng hai
châu Ô, châu Lư (nay là tỉnh Thừa Thiên-Huế), Đại Việt trước đó được
thêm phần đất Thuận Hóa (tỉnh Quảng B́nh), xứ ta mở rộng bờ cơi.
Đây là bước tiến mở mang bờ cơi chiến lược mỹ nhân kế. Những dịp lễ
hội Đại Việt, vua Chế Mân phái những đoàn vũ nữ apsara với thân h́nh
phồn sinh, nảy nở bẩm sinh, đôi bồng đảo căng tṛn nhựa sống, những
apsara với cơ ngơi bốc lửa, mê ly như mọng, làn da ngăm sạm bánh mật,
cánh mũi thon gọn và thẳng tắp, đôi mắt to tṛn sâu thẳm. Tương tự
bên văn hóa Khmer cũng có những điệu vũ do Apsara như vậy trong các
di tích kiến trúc tại Angkor Thom ngày nay. Các tỉnh như Trà Vinh,
Sóc Trăng, Bạc Liêu Châu Đốc cộng đồng Champa và Khmer Krom vẫn c̣n
nhiều, và lễ lạc apsara vẫn phồn sinh, phồn thực như thơ Cung thi
nhân. Chủ đề của nhà thơ ghi dấu huyền tích và nhan sắc, phần gái
đẹp miền tây theo phạm vi nhân chủng học, nét đẹp do sự lai căng do
tạp chủng (beauté par les races mélangées), v́ sự tạp chủng giữa
người gốc Champa và người Khmer pha lẫn sắc diện gốc Ả rập Mecca và
Ấn Bangla, rồi lai Việt và Tàu, nên những thiếu nữ miệt Lục tỉnh
động ḷng thi nhân chăng (?), tôi xin hỏi ông nhé.
CTT điểm qua bài thơ #2 "Phồn Thực Ca". Thi nhân CTT có hỏi tôi có
biết gái miền tây đẹp như thế nào không, tôi bảo "Không". Thi nhân
mạn đàm là gái miền Tây đơm hoa kết trái bởi hương thơm mít tố nữ,
bởi hương thơm hoa sứ nhà nàng (v́ champa có nghĩa là hoa sứ), ôi
chao nào những apsara phồn thực, kỳ bí, như những bầu vú sữa tím
than, sa pô chê, nhăn lồng, cam mật, mận ngọt, quít đường,.. Với kư
ức nay đă vào dĩ văng với cô giáo Tây Đô, tên Hậu Giang của thuở
ngày xưa, Vẻ đẹp nhân hậu khiến Cung thi nhân h́nh thành bài thơ "Phồn
Thực Ca". Góc dĩ văng đưa ông trở về với lư luận có mối liên hệ đến
lịch sử cũ và kư tích vũ công apsara dù nét xinh đẹp của người con
gái hậu giang đó có nguồn gốc tạp chủng ra sao của các nền văn minh
cổ Champa hay Khmer, vẫn như nét huyền bí, và thần thoại trong chất
thi ca của ông.
Tiễn Em - Sĩ Phú - Phạm Duy - Cung Trầm Tưởng:
https://www.youtube.com/watch?v=ehJ5r9_DSms
Hôm họp mặt hội ngộ thân hữu thi ca văn học với liên nhóm Nhân Văn
Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian, thi sĩ Cung Trầm Tưởng đă huyên
thuyên, hoạt bát say thơ trên sân khấu, ông đưa cử tọa về một góc
trời Paris, có ga Lyon đèn vàng, có vườn Luxembourg. Thi ca huyền bí
có Ngọc Tiên một huyền thoại Pénélope của Hy Lạp, rồi có lịch sử
hiện về với "Phồn Thực Ca". Vẻ đẹp Apsara Champa, hay Angkor Thom ẩn
chứa nét thi triết vũ trụ, thiên nhiên, văn hóa, tâm linh, con người,...
những khía cạnh mà thi ca Rabindranath Tagore, Kahlil Gibran,
Charles Baudelaire, JP Sartre,... phản ảnh trong chất thơ. Chất thơ
như vậy mang tính chất đồng bộ với thi ca Cung Trầm Tưởng.
Trong quan điểm “Il est toujours à la bonne place, au bon moment.”,
v́ hầu như Cung thi nhân mang cung mạng Kim Phong Kiếm (Vàng ở Kiếm),
vốn là người của danh vọng, của đào hoa, của số đỏ hồng loan chiếu
mạng. Nhà thơ xét theo tướng số tử vi, ông Nhâm Thân (1932) được sao
văn xương hội tụ cùng cung hóa khoa chiếu bổn thân, khiến bao lộc
may văn cung hỗ trợ mệnh chủ tế về diện công danh phú quới, bổn mệnh
được tài cao đức trọng nhờ văn chương, thi phú có biểu hiện xuất sắc
về mặt tài nghệ thâm sâu văn học.
Như quan điểm trên, tôi suy nghĩ Cung Trầm Tưởng đă đúng với câu nói
của người Pháp là: "Một người luôn ở vị thế đúng chỗ, đúng thời".
Vâng, ông là người của duyên số danh vọng măn kiếp! (L'homme de
gloire kalpa, toujours!).

Việt
Hải, Los Angeles
12/2019
|