Nguyễn Văn Thành
 

 

Sự Giáo Dục và Thi Cử Qua
    Các Thời Đại  Ở Việt Nam
:
 

 Phần 1  |   Phần 2  |  Phần 3  |

Phần 4   |   Phần 5  Phần 6  |

Phần 7   |   Phần 8  |  Phần 9  |

Phần 10 |  Phần 11 Phần 12 |

Phần 13 |  Phần 14 Phần 15 |

Phần 16 |  Phần 17 Phần 18 |

Phần 19 | Phần 20  |  Phần 21 |

Phần 22 | Phần 23  | Phần 24

 

 

 

 

 

 

 

 

 


S
  GiÁO  DỤC  VÀ THI C  QUA cÁC THỜI  ĐẠI
  V I Ệ T   N A M

Nguyễn Văn Thành


Phần 12:

  

 

E- GIÁO DỤC VÀ THI CỬ TỪ NĂM 1975 ĐẾN NGÀY NAY

Sau năm 1975, hệ thống giáo dục và thi cử của Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) được chia ra làm hai thời kỳ: Thời kỳ thứ nhất từ năm 1975 đến năm 1986, và thời kỳ thứ hai từ năm 1986 đến ngày nay.
 

Thời Kỳ Thứ Nhất (1975-1986):

Sau khi Sài G̣n thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975, tất cả các học sinh phải quay về trường cũ để học hết chương tŕnh dở dang, và như vậy nhà trường mới chuyển đơn để được phép dự thi.

Chính quyền mới tổ chức kỳ thi Tú Tài vào tháng 9 năm 1975. Các ban A,B,C,D vẫn như cũ nhưng không thi theo lối trắc nghiệm và chương tŕnh cũ, chỉ thi các môn chính không có Vấn Đáp thí dụ ban Khoa học B thi Toán Lư Hóa, Sinh Ngữ và Sử hoặc Địa, không có Triết Học nhưng phải thi Việt Văn. Kỳ thi Tú Tài năm này, bách phân đậu khoảng 40-50%.

Tất cả các trường Đại Học không mở các kỳ thi vào Đại Học, các sinh viên cũ đến ghi danh đều phải học tập chính trị và quân sự khoảng 2 tuần lễ tại quân trường Thủ Đức hoặc trong cư xá của sinh viên Thủ Đức. Đến tháng 10 năm 1975 các trường mở cửa lại, đặc biệt tất cả các trường Tư biến thành trường Công (Tiểu, Trung và Đại Học không đóng học phí) và toàn bộ tài sản của các trường Tư Thục đều bị tịch thu, do đó không có bất cứ một trường Tư Thục nào thuộc Tiểu Học, Trung Học hoặc Đại Học hiện hữu trong giai đoạn này.

Các Giáo sư Tư Thục làm cho chính phủ mới chỉ lănh lương tượng trưng là 33 đồng một tháng (tức khoảng 16500 đồng VNCH). Tiền của chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) được tạm tiêu dùng và cứ một đồng tiền mới tương đương với 500 đồng tiền VNCH. Ngày mùng 2 tháng 9 năm 1975 có lệnh đổi tiền và mỗi gia đ́nh được đổi 200 đồng tiền mới tương đương với 100 ngàn đồng tiền VNCH. Ai có tiền nhiều hơn số tiền giới hạn đều phải kư thác vào nhà băng nhưng khi gia đ́nh lâm nguy như cưới hỏi tang lễ th́ được xin phép rút ra đủ số tiền để trang trải.

Kể từ năm 1975, học tŕnh của tất cả các trường trong Nam vẫn như cũ nghĩa là bậc Tiểu học vẫn có quy chế 5 năm, Trung học vẫn 7 năm tuy chỉ có một vài thay đổi nhỏ trong chương tŕnh là môn Triết không được giảng dạy ở lớp 12 nữa. Niên khóa 1975-1976, tất cả các trường Đại Học tổ chức đoàn ngũ hóa Sinh Viên để học tập Chính Trị mà không học Văn hóa hoặc chuyên môn.

Trường Đại Học Luật Khoa bị giải tán v́ chính quyền không cần Luật Sư.

Các Đại Học Tư Thục như Đại Học Vạn Hạnh, Minh Đức (chuyên về Y Khoa nhưng chưa có một sinh viên nào của trường này tốt nghiệp trước năm 1975) đều bị giải tán. Do đó, chỉ các kỳ thi vào Đại Học Công Lập được tổ chức vào năm 1976, chia làm 4 khối:

Khối A thi Toán Lư Hóa, không có hệ số. Và tùy theo nguyện vọng, thí sinh được phép vào học trường Kỹ sư hoặc trường Đại Học Khoa Học hoặc Đại Học Sư Phạm.

Khối B thi Toán Hóa Học và Sinh Vật để nhập trường Y Dược hoặc Đại Học Khoa Học, ban Vạn Vật hoặc Đại Học Sư Phạm, ban Vạn Vật hoặc trường Y Nha Dược.

Khối C thi Văn, Toán, Sử hoặc Địa để vào trường Văn Khoa hoặc Đại Học Kinh Doanh hoặc trường Đại học Sư Phạm, ban Văn Chương.

Khối D thi Văn, Sử hoặc Địa và Sinh Ngữ.

V́ có những người cán bộ hoặc bộ đội hoặc con em cán bộ từ Bắc vào Nam quản lư và cai trị nên đề thi có hai hệ:

Hệ trong Nam 12 năm
Hệ ngoài Bắc 10 năm

Cũng nên nhắc lại năm 1954, học sinh chỉ cần học bạ lớp 9 được thu nhận vào Đại Học th́ sau trên 20 năm nền Trung học Việt Nam đă tiến được từ 4 lớp lên 5 lớp (lớp 10) và sau lớp 10 phải thi kỳ thi tốt nghiệp Phổ Thông Trung Học.

Như vậy các kỳ thi vào Đại học ở trong Nam trong giai đoạn này, ta thấy tất cả các thí sinh đều thi chung một pḥng nhưng có quyền lựa chọn đề thi: đề thi thuộc hệ 12 năm hoặc đề thuộc hệ 10 năm.

Hệ 12 năm:

Môn Toán khối A thi Giải Tích, Tân Toán, H́nh Học Giải Tích.

Môn Vật Lư thi Động Lực Học, Tuần Hoàn, Quang Ba Động, và Điện Xoay Chiều.

Hệ 10 năm:

Thi H́nh Học Không Gian, Lượng Giác và Đại Số, Vẽ đường Biểu Diễn không có Tích Phân.

Thi Quang H́nh, Điện một chiều, Hóa học thi tương tự như nhau nhưng hệ 12 năm th́ khó hơn chút đỉnh.

Thí dụ:

Môn Toán Học thuộc hệ 12 năm thi Tân Toán, Giải Tích và H́nh Học Giải Tích.

Hệ 10 năm thi H́nh Học, Đại Số và Lượng Giác.

Tuy nói rằng thí sinh muốn lựa đề thi nào th́ lựa nhưng các thí sinh miền Nam vẫn phải lựa hệ 12 năm là những môn đă học lớp 12 được chuẩn bị kỹ càng cho kỳ thi. Và cho dù thi hệ nào đi nữa nhưng đối với các thí sinh có công với chế độ miền Bắc đều được ưu tiên xét tuyển. Thí dụ thi vào cùng một ban, thí sinh miền Nam phải có số điểm đậu tối thiểu 20/30 trong khi những thí sinh có công với chế độ miền Bắc chỉ cần 13/30 là được xét tuyển. Thí dụ thi vào đại học Toán tại Sài G̣n th́ học sinh trong Nam phải cần 20/30 (năm 1976) mới đủ điểm đậu trong khi những người có công với cách mạng chỉ cần 13/20 đă đậu rồi. Người viết chỉ ghi lại sự kiện và miễn phê b́nh.

Giai đoạn 1975 đến 1986 là quan trọng nhất v́ là thời gian cần thiết để đào tạo đủ số giáo chức thi hành chính sách 12 năm Tiểu và Trung Học. Nền giáo dục Đại Học ở miền Nam vẫn là 4 năm trừ Y Nha Dược, trong khi miền Bắc vẫn 3 năm và được nâng lên 4 năm kể từ năm 1981. Các nhà giáo dục miền Bắc nhận thấy rằng hệ thống Trung Tiểu Học 12 năm ở miền Nam có ưu thế hơn chẳng những môn Khoa Học có tŕnh độ cao mà các trường c̣n dạy Sinh Ngữ từ lớp 6. V́ vậy, các nhà giáo dục quyết tâm nâng tŕnh độ Trung Tiểu Học lên 12 năm y hệt trong Nam nhưng cần mất 11 năm để có thể sản xuất được đủ số các giáo chức dạy các môn Khoa Học lớp 11 và lớp 12 cũng như Sinh Ngữ Anh và Pháp ở bậc Trung Học.

Thêm vào đó, các trường trong Nam có môn Toán lớp 12 rất nặng về Tân Toán Học, Giải Tích và H́nh Học, nên các nhà giáo dục miền Bắc đồng ư rằng khó mà đào tạo được các giáo sư dạy môn Tân Toán. Do đó, chính phủ quyết định bỏ môn Tân Toán lớp 12 và đem môn này lên Đại Học. Như thế, các môn Giải Tích Vi và Tích Phân, H́nh Học Giải Tích Cơ Bản gồm phương tŕnh đường thẳng và mặt phẳng, ṿng tṛn và các h́nh Conic được đặt nặng trong việc giảng dạy. Các môn Toán ngang bằng với các nước tiên tiến.

Đồng thời, môn Vật Lư được phát triển gồm các môn Động Lực Học Tuần Hoàn, Quang Sóng và Ḍng Điện Xoay Chiều, Điện Tử Bán Dẫn giúp cho học sinh có căn bản để bước lên Đại Học.

Ngoài ra, các trường Đại Học Sư Phạm và Văn Khoa trong 11 năm cũng đă cố gắng đào tạo các Giáo sư Sinh ngữ đặc biệt là Anh Văn, Pháp Văn, Nga Văn và Trung Văn.

Tất cả các trường Đại học ở miền Bắc tuyển sinh viên có bằng Phổ Thông Trung Học như trường Khoa Học, Văn Khoa, Sư Phạm, Kỹ Sư … và thời hạn chỉ có 3 năm nhưng sau năm 1981 được nâng lên 4 năm. Các Đại Học trong Nam như trường Văn Khoa, Khoa Học, Sư Phạm, Kỹ Sư…được đổi theo niên học thay thế cho hệ thống chứng chỉ và cần 4 năm.

Y Khoa ở trường Đại Học Sài Gỏn vẫn là 7 năm, ngoài Bắc chỉ có 6 năm.

  

Sau khi nâng cấp lên 12 năm, bậc Tiểu và Trung Học chia ra làm 3 cấp:

Cấp 1 từ lớp 1 đến lớp 5, sau lớp 5 phải thi bằng Tiểu Học.

Cấp 2 từ lớp 6 đến lớp 9. Cuối lớp 9 phải thi Trung Học Cơ Sở rồi thi nhập học vào lớp 10 trường Công Lập.

Cấp 3 từ lớp 10 đến lớp 12, sau lớp 12 thi bằng tốt nghiệp Trung Học Phổ Thông.

Trong giai đoạn này, cấp 3 không có chia ban. Trung Học Phổ Thông thường tốt nghiệp từ 60 đến 95 %, tùy từng tỉnh. Việc thi tốt nghiệp Phổ Thông Trung Học lúc bấy giờ bao gồm các môn chính là Việt Văn, Toán, Lư (hoặc Hóa), Sử (hoặc Địa), Sinh Học và Sinh Ngữ, không có thi Vấn Đáp.

Tuy nhiên với bằng Phổ Thông Trung Học, học sinh không đương nhiên được nhận vào Đại Học dù là Đại Học Công Lập. Muốn vào các trường này thí sinh phải dự thi và tùy từng trường, tỷ số đậu khoảng 10, 20 hay 30%.
 

Kết Luận:

Từ tháng 4 năm 1975 đến năm 1986 không có bất cứ một trường Tư Thục nào ở các bậc Tiểu, Trung và Đại Học cho phép hoạt động. Nền Giáo Dục Trung và Tiểu Học trong giai đoạn này đă được thay đổi, tăng thời gian là 12 năm. Tuy nhiên, việc học hành, thi cử và kinh tế gắn liền với thời cuộc Việt Nam được tóm tắt như sau:

Một số lớn đồng bào đă bỏ nước ra đi bằng đường biển lẫn đường bộ trong đó có người Việt gốc Hoa được phép ra đi khỏi Việt Nam sau tháng 5 năm 1978. Kết quả trên 1 triệu người đă vượt biên thoát đến bến bờ tự do nhưng theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc thống kê cứ 3 tàu vượt biên chỉ có 2 tàu thoát, 1 tàu bị đắm tại biển khơi tức khoảng nửa triệu người đă mất tích ngoài biển cả. Tiếp theo đó là cuộc chiến tranh với Trung Quốc từ 17 tháng 2 đến 16 tháng 3 năm 1979 và Cam-Bốt từ năm 1977 đến năm 1991.

V́ vậy trong giai đoạn này, nền kinh tế cực kỳ yếu kém và có cơ sụp đổ toàn diện cho nên năm 1986 chính phủ thay đổi chính sách đổi mới theo gương của Nga Sô để cứu văn nền Kinh Tế. Kể từ năm 1986 đến ngày nay, nền Kinh Tế Thị Trường Định Hướng XHCN là giai đoạn kế tiếp, và ảnh hưởng của nền Giáo Dục và Thi Cử liên hệ sẽ được đề cập trong những phần sau.


 

 

Tham khảo:

Trong việc hoàn tất loạt bài này, tác giả dựa theo trí nhớ và đă tham khảo những tài liệu sau đây:

Trước năm 1945: Tham khảo "Việt Nam Sử Lược" của
                           Trần Trọng Kim

Sau năm 1945:  Tham khảo của những người đă
                         sống trong những thời đó thí dụ muốn
                         biết việc thi cử trong khoảng 60-75 th́
                         hỏi những thí sinh và các giáo sư
                         trong khoảng thời gian đó.

Các Websites liên hệ được trích dẫn trong những bài viết.

Tác giả rất cần ư kiến của các chuyên gia về cách học tập và thi cử ở các trường Đại Học qua mọi thời đại thí dụ như về Y Khoa cần ư kiến của các Bác Sĩ đă từng tốt nghiệp ở Đại Học Việt Nam, Nha Khoa cần các Nha Sĩ, Dược Khoa cần Dược Sĩ, Luật Khoa cần các vị tốt nghiệp trường Luật và tất cả các trường khác tại Việt Nam,… Mong toàn thể quư vị góp ư kiến v́ không một ai có thể biết tất cả các bộ môn được. Cám ơn quư vị.

 

Nguyễn Văn Thành
Trung tuần tháng 5,
2005
(c̣n tiếp)