|

Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư
Xuân
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
Đọc
Lá
Thư
Xuân
Nguyễn
Đôn
Huế
Trang
Táo
Quân Xứ
Ninh
Chầu
Ngọc
Đế
Lê
Thị Lộc
Câu
Đối
Mừng
XUÂN
Mục
Đồng
Câu Đối
Tết
Vinh
Hồ
Thơ
Xuân
Xuân
Về Trên Phố
Ninh Ḥa
Tường
Hoài
Xuân
Chớm
Vinh
Hồ
Chúc
Xuân Đầu Năm
Lư
Hổ
Mừng
Xuân
Nguyên
Kim
Mừng
Xuân Tân Măo
Mừng Xuân
Mới
Nguyễn
Liệp
Xuân
Đi
Chùa
Lễ Phật
Xuân Viễn
Xứ
Lê
Văn
Ngô
Xuân
Nhớ
Thi
Thi
Đón
Xuân
Hoài
Thu
Xuân
Về
Hai
Phương
Ngô
Trưởng
Tiến
C̣n
Nợ Mùa Xuân
Lương
Mỹ
Trang
Mùa
Xuân
Đi
Lễ
Chùa
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
Chúc Mừng
Tết Tân
Măo
Năm 2010
Du
Sơn Lăng
Tử
Những Sắc
Hoa Mùa
Xuân
Tiểu
Vũ Vi
Tết Quê
Nhà
Gói
Bánh
Lan
Đinh
Có Một
Mùa
Xuân
Như
Thế
Lê
Thị Ngọc
Hà
Bữa Cơm Chiêu
30 Tết
Của
Má
Nguyễn
YLang
Xuân
Quê
Hương
Phạm
Thanh Phong
Tân - Măo...
Phi
-
Ṛm
Tết Và
Tuổi
Thơ
Lương
Lệ Bích San
Tết
Hải
Ngoại
Đón Tết Việt
Nam Tại
Toronto Và
San Jose
Trần
Ngọc
Chánh
Tâm
Xuân
Nguyên
Kim
Văn
Hóa
Dân
Gian
Tục
Lệ
Tết
Trần
Ngọc
Chánh
Phỉnh
Nguyễn
Thị
Tuyết
Mai
Ấp
Ngoài
Nguyễn
Thục
Hội
Ngộ
Ninh
Ḥa-Dục Mỹ
Hội Đồng Hương
NH-DM,
Nơi Nh́n
Lại Một Thời...
Nguyễn Hồ
Bảo
Đại
Hội -
Tiểu
Hội
Topa Panning
Cắm
Hoa
Trang
Trí
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa
Hải
Lộc
Tranh
Nghệ Thuật
Tranh
Ảnh
Nghệ
Thuật
Phi
-
Ṛm
Hoa Xuân
Ngày
Tết
H́nh
Ảnh
Xuân
Sử
Xương
Hải
Thơ
Vui
Con
Mèo
Trèo Cây
Cau
Nam
Kha
Nhậu
Một
Ḿnh
Phạm
Thanh
Phong
Chung
Vợ
Chung
Chồng
Mai
Thái
Vân
Thanh
Chất
Vấn
Ngọc
Hoàng
Dương
Công
Thi
Đốt Tràng Pháo
Chuột
Mừng Nhà
Mẹo
Tú
Trinh
Mèo Ngao Lật
Đổ Loài
Cọp Dữ
Tú
Trinh
Ca
Hát/Nhạc
Nhạc Xuân Và Quê
Hương
Thu
Thủy,
Lan
Đinh
Thanh
Nhàn,
Lư
Hổ
Tân Cổ: Không Tên
Nguyễn
Hương
Phương
Ngữ
Ninh
Ḥa
Một
Số
Từ
Biến
Âm:
PHỈNH
Nguyễn
Văn
Thành
Tôn
Giáo
Kỷ Niệm Chuyến
Du Xuân
Đà Lạt
Đinh
Hữu
Ân
Năm
Tân
Măo
Nói
Chuyện
Mèo
Ba
Chị
EmTuổi
Măo
Lữ
Thanh
Cư
Tán Ngẫu Về
Loài Mèo Cho
Năm Mới
Trần
Việt
Hải
Năm
Mèo Tản Mạn
Về Mèo
Vinh
Hồ
Ngũ Phụng Thư
Trần
Thị
Phong
Hương
Nỗi
Niềm Năm Con
Thỏ
Thục
Minh
Tản
Mạn
Về
Tết
Tân
Măo
Nguyễn
Văn Thành
d_bb
Đ.H.K.H
Mùa
Xuân
Nào
Trên
Quê
Hương
Tô
Đồng
Liêu Trai Chí
Dị-415
Đàm
Quang
Hưng
Thanh
Phong
Thi
Tập-57
Vũ
Tiến Phái
Hạnh Xả
Nguyễn
Văn Phú
Ngũ Phúc
Lê
Phụng
Tết
Nhất
Nguyễn
Hữu Quang
Kinh
Nghiệm
Sống
Đi
T́m
Sự
Thật
Tâm
Đoan
Chăm
Sóc
Người
Cao
Tuổi
BS Đỗ
Hồng
Ngọc
Ngày
Tết
Tôi
Đi
Nằm
Viện
Phan
Nho
Tâm
B́nh
Thế
Giới
B́nh
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Số
Mạng
Nguyễn
Tính
Văn
Hóa
Ẩm
Thực
Món
Chay
Ngày
Tết
Lê
Thị Đào
Đừng
Quên
Xà
Lách
Xoong
Việt
Hải
Lucky
Money
Đinh
Thị
Lan
Kim
Chi
Hàn
Quốc
Hoàng
Lan
Rau
Muống
Ngâm
Chua
Hoàng
Lan
Thịt
Quay
Kho
Dưa Cải
Chua
Hoàng
Lan
Đậu
Hủ
Trứng
Nguyễn
Y
Lang
Bánh
Tét
Tôi
Gói...
Phi
-
Ṛm
Sức
Khỏe
Viêm
Gan
Siêu
Vi
B
BS Nguyễn
Vĩ
Liệt
Biên
Khảo
Kinh
Tế
Việt
Nam
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Việt
Nam
Năm 2010
Nguyễn
Văn Thành
Hoa
Kỳ/Thế
Giới
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Mỹ
Quốc Năm 2010
Nguyễn
Văn Thành
Tài
Nguyên
Nghề
Dệt
Lá
Buồm
Dương
Công
Thi
Ruộng
Muối
Ḥn
Khói
Lê
Phú
Thọ
Viết
về
Ninh
Ḥa
Con
Mèo
Mun
Nơi
Lăng
Bà
Vú
Quách
Giao
Ḥn Vọng Phu
Lê
Văn
Ngô
Phủ
Ninh Ḥa
Lê
Văn
Ngô
Bưởi Trái Mùa
Dương
Công
Thi
Viết
về
ninh-hoa.com
Thư
Xuân
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Ninh
Ḥa
Xa
Mà
Gần
Phan
Trang
Hy
Kỷ
Niệm
Về
Trường:
Trần
B́nh Trọng
Ninh Ḥa
Một
Mùa Xuân Vắng
Cành Mai
Trần
Hà Thanh
Kư
Ức
Liên
Trạch
Các Trường
Khác
Tôi
Đi
Giữa
Trời
Bồi
Hồi
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Bến
Sông
Xưa
Nguyễn
Thị
Tuyết
Hoa
Thi
Nhạc
Giao
Duyên
Ninh
Ḥa,
Ninh
Ḥa
LMST-Thơ:
LL
Huyền Chiêu
Văn
Học
Nghệ
Thuật
Ngày
Xuân Nói Chuyện
Trầu Cau
Nguyễn
Tấn Ka
Sự
Cô Đơn Và
Khát Vọng
Đợi Chờ...Trong
Thi Phẩm
BẾN ĐỢI
Lê
Miên
Khương
Đọc
BẾN ĐỢI 2 Của
Kim Thành
Và TT Phú Sĩ
Trần
B́nh Nam
Tát
Nước
Đầu
Đ́nh
Phạm
Thị
Nhung
Mộ
Xuân
Mạn
Hứng
Dương
Anh
Sơn
Xuân
Tiêu
Lữ
Thứ
Dương
Anh
Sơn
Giai
Thoại
Bài
Thơ
Phong
Kiều
Dạ
Bạc
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Ư
Của Thơ
Nguyễn
Tính
Mùa
Xuân
Và
Thi
Ca
Người
Xứ
Vạn
Dạ Khúc T́nh
Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Tưởng
Niệm
Anh
Ơi,
Đừng
Đi
Nguyễn
Thị
Thu
Thơ
Giao
Thừa
Đinh
Hữu
Ân
Gởi
Bạn
Thân
Dương
Công
Bản
Giông
Tố
Khắc
Họa
Nguyễn
Thị
Bảy
T́nh
Biển
Thanh B́nh
Viết
Cho Anh
Lê
Tấn
Cam
Hai
Chiếc
Áo
Nguyên
Chất
T́nh
Yêu Buổi Sáng
Trần
Thị
Chất
Đổi
Thay
Hương
Đài
Cuối
Trời
Hương
Đài
Sầu
Đông
Lê
Thị
Đào
Thơ
Chờ
Xuân
Trần
Minh
Hiền
Tiễn
Con
Nguyễn
Thị
Tuyết
Hoa
Bềnh
Bồng Đón Xuân
Tường
Hoài
The
Poem Of NumBer
5
And Number
6
Vinh
Hồ
Nem
Chua
Ninh
Ḥa
Nguyễn
Thế
Huy
Về
!
Nguyễn
Hương
Xuân
Gơ
Cửa
Quỳnh
Hương
Ninh
Ḥa
Tôi
Mơ
Phan
Trang
Hy
Thị
Trấn
Bằng Lăng Tím
Nguyễn
Tấn Ka
Xuân
Trở
Về
Nam Kha
Ta
Muốn
Hỏi
Nguyễn
Y Lang
Chúa
Xuân
Có
Biết?
Hồn
Nhiên
Nguyễn
Liệp
Xuân
Nồng
Đàm
Thị
Ngọc
Lư
Sáu
Bài
Thơ
Xuân
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
T́nh Thơ
Lê
Văn
Ngô
Cây
Cỏ Cũng Vui
Lây
Như
Nguyệt
Chùm
Thơ
Như
Nguyệt
Xuân
Nhớ
Mẹ
Phan
Nho
Ta
Về
Đêm
30
Phan
Tưởng
Niệm
Thư
Xuân
Cho
Con
Phan
Tưởng
Niệm
Núi
Cô Tiên
Nguyễn
Hoàng
Phi
Điệp
Khúc
Mùa
Xuân
Bích
Phượng
Dĩ
Văng
Mùa
Xuân
Nguyễn
Quân
Hạnh
Phúc
Mùa
Xuân
Nguyễn
Quân
Tranh Cố Hương
NhàQuê
Đá Vàng
Cô
Kim
Thành
Thuở Ấy Học
Tṛ
Cô
Kim
Thành
Xuân Phai
Vơ
Ngọc
Thành
Mùa Xuân Nhớ
Mẹ
Trần
Đ́nh
Thọ
Anh
Là
Mùa
Xuân
Hoài
Thu
Em
Không
Về
Nguyễn
Thị
Thu (VN)
Nhớ
Quê
Ngô
Trưởng
Tiến
Sầu
Tha Hương
Nguyễn
Tính
Nỗi
Nhớ...Mùa
Xuân
Hoàng
Trang
Xuân
Chưa
Trọn
Vẹn
Nguyễn
Thị Tri
Thềm
Xuân
Luyến
Mộng
Du
Sơn
Lăng
Tử
Xuân
Viễn
Vọng
Du
Sơn
Lăng
Tử
Mộ Xuân
Hoài
Cảm
Tiểu
Vũ Vi
Văn
Đi
Qua
Ngày
Giông
Băo
Lê
Thị
Mỹ
Châu
Những
Ư
Nghĩ
Vụn
Cuối
Năm
Việt
Hải
Giữ
Lấy
Mùa
Xuân
Cao
Minh
Hưng
Người
Thầy
Dạy
Búp
Bê
Phan
Trang
Hy
Nẻo
Về
Đinh
Thị
Lan
Nhanh
Quá
Những
Mùa
Xuân
Lê
Thị
Lộc
Chuyện
Kể Trong Ngày
Xuân
Thục
Minh
Bạch
Miu
Topa
Panning
Khúc
Loanh
Quanh
Lê
Văn
Quốc
Bếp
Lửa
Chiều
Đông
Trương
Thanh
Sơn
Chuyện
Đầu
Năm
Lâm
Minh
Tài
Đi
Qua Những B́nh
Yên
Hoa Cúc
Nguyễn
Hữu
Tài
Mỗi
Độ
Xuân
Về
Thi
Thi
Hạt
Bụi
Trong
Tim
Tiểu
Thu
Một Bông Hồng
Cho Đại Hội
Thụ Nhân
2010 Tại Úc
Người
Xứ
Vạn
Chuyện Xóm Cầu
Gỗ
Nguyễn
Thị
Cẩm
Vân
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

diem27thuy@yahoo.com

|
TẾT NHẤT

***
Tháng giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè …
Nhân dịp Tết Tân-măo, xin thử
phân-tích tiếng Nôm ghép Tết Nhất, thường được dùng trong
khẩu-ngữ "Tết Nhất đến nơi rồi". Theo cố-giáo-sư Lê Ngọc Trụ
tiếng Tết là do chữ Nho tiết
節
sinh ra và Tết Nhất là nôm hoá tiếng đôi tiết-nhật c̣n gọi là
lễ-tiết, nghiă là ngày lễ (Pháp-ngữ là nói là fête hay jour
férié, Anh-ngữ nói là holidays).
Cần nói ngay là năm nay là năm măo, là năm con mèo, người Nam
gọi là năm mẹo. Khi than trời như bộng người ta thường nói: Tư
ngọ mẹo dậu ơi! Mèo chữ Hán là miêu
貓,
người miêu miền thượng-du Bắc-Việt, thường được gọi là người
mèo. Chung
quy măo, mẹo, mèo, miêu cũng đều cùng nguồn gốc và không
dính dáng ǵ đến tú Măo cả.
Trước thế-kỷ thứ 17, tiếng Việt c̣n
nhiều song-tiết (một tiếng đọc thành hai âm-tiết). Như trong
Tiếng Nôm tối cổ
%
mà cổ-nhân khi viết chữ theo
cột đă vô-t́nh phân thành hai chữ
文
郎
Văn-lang, nguyên đọc là mlang (v́ chữ văn chỉ là chỉ là
phù-hiệu của thanh mẫu ml) và có nghĩa là làng. Người
Mường (Mlường < mlàng) có nghĩa là người làng, v́
chẳng qua họ là người Việt chính-cống, rút lên rừng núi, chống
giặc ngoại-xâm phương bắc. Quan lang chính là viên quan của
làng. Hai vị anh-hùng dân-tộc đánh đuổi giặc Minh về Kim-lăng
đều là người Mường 100%: B́nh-Định-Vương Lê Rị (người đời sau v́
kỵ húy đọc trại thành Lị rồi Lợi), nguyên-quán làng Lam-sơn,
huyện Lương-giang, phủ Thọ-xuân, tỉnh Thanh-hóa. Tôi vụng nghĩ Ngài nguyên-quán làng Bản-thủy, phủ
Quảng-xương tỉnh Thanh-hoá bởi chưng phương-ngữ làng này rất
đăc-biệt vỉ tôi có nghe qua hồi đi tản-cư. C̣n Ức-trai Tiên-sinh
nguyên-quán làng Chi-ngại, huyện Phượng-sơn (Chí-linh), tỉnh
Hải-dương. Ngày nay dân Thái-lan (Thailand) vẫn gọi nước của họ
là Mường-Thái. Ngay đến quốc-danh của nước rộng nh́ thế-giới là
Canada cũng có nghĩa là làng! Thế mới hiểu tại sao “phép vua
thua lệ làng”. Làng cũng có nơi gọi là láng, như phủ Thọ-xuân,
Thanh-hoá, có láng Xuân-phả, láng Yên-lăng v.v. Ngoại-ô Sài-g̣n
cũng có láng Thọ (người Pháp viết thành Lantho, người
Việt
tái-phiên-âm thành Lăng-tô: sự đời khéo lắm tṛ quanh quẩn!).
Cho nên khi đọc thơ cuả Đại-Việt-nho
Nguyễn Trăi (Quốc-âm Thi-tập) hay cuả Cụ Trạng Tŕnh Nguyễn
Bỉnh-Khiêm (Bạch-vân Quốc-ngữ-thi), ta thường bắt gặp vài câu
thơ sáu chữ bắt làm bẩy chữ như:
Phú-quư co-seo, sương ngọn cỏ
(QÂTT,
Bài số 73 trong bản Nôm cuả Ân-sư, Cụ Sơn-mai Hoàng Khôi).
Tiếng
Nôm cổ co-seo, đọc nhanh thành "kseo", nay đổi thành seo hoặc
teo, có nghiă là co lại, săn lại. Tôi vụng nghĩ câu thơ này
thoát ư từ câu thơ Đỗ Phủ, trong bài Tống Khổng Sào Phủ:
Phú-quư hà như thảo đầu lộ.
富
貴
何
如
草
頭
露。
Nghiă là: Phú-quư
như sương đầu ngọn cỏ.
Chữ Nôm kseo viết với chữ liêu có dấu âm cự
巨
(k) phủ đầu.
Chữ Nôm
"Tết" v́ mượn tự-h́nh
cuả chữ Hán "tiết", nên có thể đọc thành năm âm: tiết (tiết
trời, tiết tre), tét (bánh tét), Tết (giỗ Tết, Tết chạp), tít
(xa tít mù tắp), tịt (tịt ng̣i). V́ hai âm "tít, tịt" nghe không
được thanh-nhă cho lắm, nên bị loại ngay ṿng đầu.
Trên lư-thuyết, tiếng "tiết" gồm cả hai nghiă thời-không: trong
không-gian, "tiết" là mấu (tiết tre), là gióng (lóng), là đốt;
trong thời-gian, "tiết" lại là thời khoảng chia theo khí-hậu.
Thí dụ kép: 24 tiết-khí vừa là 24 tiết-điểm phân-bố đều trên
quỹ-đạo h́nh ellipse cuả trái đất, vừa là 24 thời-điểm
dương-lịch trung-b́nh cuả một năm tiết-khí
節氣: Đông-Chí
冬至
(21-22.12); Tiểu-Hàn
小寒
(5-6.01), Đại-Hàn
大寒
(20-21.01); Lập-Xuân
立春
(4-5.02), Vũ-Thủy
雨水
(19-20.02); Kinh-Trập
驚蟄
(5-6.03), Xuân-Phân
春分
(21-23.03); Thanh-Minh
清明
(4-5.04), Cốc-Vũ
穀雨
(19-20.04); Lập-Hạ
立夏
(5-6.05), Tiểu-Măn
小滿
(21-22.05); Mang-Chủng
芒種
(6-7.06), Hạ-Chí
夏至
(21-22.06); Tiểu-Thử
小暑
(7-8.07), Đại-Thử
大暑
(23-24.07); Lập-Thu
立秋
(7-8.08), Xử-Thử
處暑
(23-24.08); Bạch-Lộ
白露
(7-8.09), Thu-Phân
秋分
(21-23.09); Hàn-Lộ寒露
(8-9.10), Sương-Giáng
霜降
(23-24.10); Lập-Đông
立冬
(7-8.11), Tiểu-Tuyết
小雪
(22-23.11); Đại-Tuyết
大雪
(7-8.12). Do hiện-tượng tuế-sai (Precession of the equinoxes),
điểm xuân-phân đi giật lùi rất chậm trên hoàng-đạo với chu-kỳ
dài khoảng 26000 năm.
Hay như tiết Thượng-nguyên (Rằm tháng giêng), tiết Trung-nguyên
(Rằm tháng bẩy), tiết Hạ-nguyên (Rằm tháng chín), tiết xuân,
tiết hàn-thực, mùng ba tháng ba, ăn đồ nguội: Đêm đêm hàn-thực
ngày ngày nguyên-tiêu (Lư Văn Phức).
Người Tầu th́ có: Tư-pháp-tiết (11.01), Nông-dân-tiết (4.02),
Hí-kịch-tiết (15.02), Quân-nhân-tiết (3.09), Giáo-sư-tiết
(28.09) tức ngày đản-sinh cuả Đức Khổng-phu-tử, Song-thập-tiết
(10.10), Thế-giới Nhân-quyền tiết (10.12) v.v.
Chính ngày mùng Một Tết Hán-văn gọi là Nguyên-đán hay
Nguyên-nhật, chứ không gọi là Nguyên-đán-tiết, trong khi tiếng
Việt lại gọi là Tết Nguyên-đán.
Trong mấy chục tiếng ghép với tiết trong tiếng Việt chỉ có hai
ngoại-lệ là Tết Đoan-ngọ (mùng năm tháng năm) và Tết Trung-thu
(Rằm tháng tám), mà bài ca-dao dẫn thượng nói là:
Ăn Tết
Đoan-ngọ trở về tháng năm.
Và: Tháng tám chơi
đèn kéo quân …
Điều đó cũng dễ hiểu, v́ đối với trẻ con từ Tết nọ
đến Tết kia lâu
quá, nên người lớn mới đặt ra hai Tết này để trẻ con có dịp vui
chơi. Ngày xưa, Tết Đoan-ngọ trẻ con đươc ăn cơm nếp giết sâu bọ
và được đeo bù-tu, bù túi. C̣n Tết Trung-thu th́ được ăn bánh
Trung-thu đủ loại, chơi con giống, rước đèn Trung-thu, xem đèn
kéo quân.
Sau này đôi khi tiếng Tết bị lạm-dụng, như khi nói Tết Độc-lập,
Tết Congo …
Danh từ tét dùng để chỉ một loại bánh nếp h́nh trụ có nhân đậu
xanh và thịt heo như bánh chrưng, có mặt khắp ba miền Bắc,
Trung, Nam từ trước thời Pháp-thuộc chứ không phải như người ta
thường tưởng lầm là chỉ có tại hai miền Trung và Nam, v́ ở ngoài
Bắc có bánh tầy (tày) là loại bánh tét lớn, và ngược lại bánh
tét là bánh tầy nhỏ.
C̣n tét khi là động-tự có nghiă là dùng dây lạt buộc bánh, cắt
bánh ra làm nhiều miếng. Tét bánh trưng th́ cắt bánh ra làm chin
miếng như chin ô cuả Lạc-thư, tức thần-phương bậc ba vậy. Ai có
đọc Lĩnh-Nam Chích-quái
嶺南摭怪
(LNCQ) cuả Trần Thế Pháp, một Việt-nho không biết sống về thời
nào (hai Hán-nho Vũ Quỳnh và Kiều-Phú chỉ là người nhuận-sắc),
cũng đều biết truyện "Bánh chưng, bánh tét" (sic). Ngay nhân-vật
chính trong truyện là Lang Liêu (chàng Liêu), Hoàng-tử thứ chin
cuả Hùng-Vương thứ ba, đọc theo Ức-trai Tiên-sinh là Tét Kseo
cũng bị đọc trại thành Tiết
Sêu, Tiết-Liêu rồi Tiết-Liệu.
Trời tṛn, đất vuông; bánh tét tṛn, bánh chưng vuông. Vả chăng,
h́nh chiếu cuả bánh tét, đặt dọc theo trục tung y’y, lên mặt
phẳng trực-đạc zOy cuả tam-diện quy-chiếu, sẽ cho ta h́nh ảnh
quẻ Kiền mà Hệ-từ Hạ-truyện VI/1 : "Kiền dương-vật dă = Kiền là
vật dương". Lại thêm ai lại ăn bánh
dầy vào dịp Tết bao giờ?
Chắc là ở vùng tác-giả LNCQ ở, không có bánh tét mà chỉ có bánh
tầy, mà tầy lại vần với dầy, nên ông thế bánh bánh dầy bằng bánh
tầy cho tiện việc. Thế th́ trong truyện hoàng-tử Tét Kseo (seo)
dâng vua cha hai thứ bánh chưng và bánh dầy vào dịp Tết, hẳn là
cán cân nghiêng về phiá bánh tét. Chắc hẳn, về sau v́ kiêng tên
tiền-nhân nên mới đọc trại tét thành Tết. C̣n tiếng nhất thêm
vào sau tiếng Tết, chẳng qua là chỉ để bảo ngày Tết là ngày
quan-trọng nhất trong năm.
Ba ngày Tết theo truyền-thống bao giờ cũng phải có đôi câu đối
đỏ để dán trên cột hai bên bàn thờ. Hồi tôi dạy tại Cơ-sở
Giáo-dục Tráng-niên Bách-Việt tại đường Pasteur Sài G̣n, vào dịp
Tết Kỷ-dậu (1969), tôi cũng có một đôi câu đối đỏ để dán trên
hai cột trước cửa ra vào cuả Trung-tâm:
An Thổ
Đôn Nhân, Bách-Việt Dương Hồi Xuân Hữu Cước;
Lạc
Thiên Tri Mệnh, Thiên Môn Âm Khứ Phúc Vô Cương.
nghiă là:
Yên
chốn ở, đôn-đốc điều nhân, khí dương về Bách-Việt, xuân có cẳng;
Vui lẽ
trời, biết mệnh trời, nhà nhà, khí âm đi. phúc không bờ.
Hai mệnh-dề chữ Nho là lấy từ Hệ-từ
Thượng-truyện IV/3: "Lạc thiên tri mệnh cố bất ưu, an thổ đôn hồ
nhân, cố năng ái.
=
Vui
lẽ trời, biết mệnh trời, nên chẳng lo, yên chốn ở, đôn-đốc điều
nhân, nên hay yêu thương đồng loại".

Cụ Thương Nguyễn Công Trứ, lúc c̣n hàn-vi, có làm câu đối vào
dịp Tết:
Chiều
ba mươi, nợ hối tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa,
Sáng
mùng một, rượu say túy-lư, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Ngày xưa ở quê nhà, Tết bắt đầu từ trừ-tịch (đêm Ba mươi Tết),
bằng nghi-thức cúng gia-tiên lúc giao-thừa, để đón rước ông bà,
ông vải về. Suốt ba ngày Tết ai ai cũng lo đi thăm họ hàng, bạn
bè và người quen:
Mùng một Tết nhà mẹ cha,
Mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy.
Măi đến hết ngày mùng bẩy Tết (nhân-thắng-tiết), trùng với ngày
kỷ-niệm Trận Đống-đa, Vua Quang-Trung đại-phá quân Nhà Thanh,
nhà nhà hạ cây nêu, làm lễ tiễn đưa Ông Bà, mới thật là hết Tết.
PHỤ-LỤC
Vè Mười Hai Con Giáp
Tuổi
TƯ
là con chuột nhà.
Bắt vịt, bắt gà, soi ngách, đào hang.
Tuổi
SỬU
con trâu ḱnh càng,
Cày chưa hết buổi đă mang cày về.
Tuổi
DẦN
ông cọp chỉn ghê,
Bắt người móc họng, tha về non cao.
Tuổi
MẸO
là con mèo ngao,
Hay quấu, hay quào, ăn vụng quá tinh.
Tuổi
TH̀N
rồng ở mây xanh,
Làm mưa làm gió, ẩn ḿnh trong mây (1).
Tuổi
TỴ
rắn ở ngọn cây,
Nằm khoanh trong bọng có hay việc ǵ !
Tuổi
NGỌ
ngựa ô đen ś,
Ỷ ḿnh cứng vó ngại ǵ đường xa.
Tuổi
MÙI
là con dê chà,
Có sừng, có gạc, râu ria um tùm (2).
Tuổi
THÂN
con khỉ ở lùm,
Trèo qua trèo lại, lọt ùm xuống sông.
Tuổi
DẬU
con gà vàng lông,
Có mỏ, có ṃng, sớm gáy o o.
Tuổi
TUẤT
là con chó c̣,
Nằm quanh trong ḷ, lỗ mũi lọ lem.
Tuổi
HỢI
con heo ăn hèm,
Ăn dơ uống dáy, thân lem lấm bùn.
(1) Có bản chép là :
Tuổi TH̀N rồng ở thiên-đ́nh,
Nghề thường luyện vơ, ẩn ḿnh trong mây.
(2) Có bản kể khác :
Tuổi MÙI thân ở trong rừng,
Tai nghe tiếng sấm vẫn từng nhảy ghê.
GS Nguyễn
Hữu Quang
Trở về Trang d_bb ĐHKH

|

Trang XUÂN 2011- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương
|
|