|

Mục
Lục
Trang
B́a
Ban
Biên Tập
Lá
Thư
Xuân
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
Đọc
Lá
Thư
Xuân
Nguyễn
Đôn
Huế
Trang
Táo
Quân Xứ
Ninh
Chầu
Ngọc
Đế
Lê
Thị Lộc
Câu
Đối
Mừng
XUÂN
Mục
Đồng
Câu Đối
Tết
Vinh
Hồ
Thơ
Xuân
Xuân
Về Trên Phố
Ninh Ḥa
Tường
Hoài
Xuân
Chớm
Vinh
Hồ
Chúc
Xuân Đầu Năm
Lư
Hổ
Mừng
Xuân
Nguyên
Kim
Mừng
Xuân Tân Măo
Mừng Xuân
Mới
Nguyễn
Liệp
Xuân
Đi
Chùa
Lễ Phật
Xuân Viễn
Xứ
Lê
Văn
Ngô
Xuân
Nhớ
Thi
Thi
Đón
Xuân
Hoài
Thu
Xuân
Về
Hai
Phương
Ngô
Trưởng
Tiến
C̣n
Nợ Mùa Xuân
Lương
Mỹ
Trang
Mùa
Xuân
Đi
Lễ
Chùa
Nguyễn
Thị Thanh
Trí
Chúc Mừng
Tết Tân
Măo
Năm 2010
Du
Sơn Lăng
Tử
Những Sắc
Hoa Mùa
Xuân
Tiểu
Vũ Vi
Tết Quê
Nhà
Gói
Bánh
Lan
Đinh
Có Một
Mùa
Xuân
Như
Thế
Lê
Thị Ngọc
Hà
Bữa Cơm Chiêu
30 Tết
Của
Má
Nguyễn
YLang
Xuân
Quê
Hương
Phạm
Thanh Phong
Tân - Măo...
Phi
-
Ṛm
Tết Và
Tuổi
Thơ
Lương
Lệ Bích San
Tết
Hải
Ngoại
Đón Tết Việt
Nam Tại
Toronto Và
San Jose
Trần
Ngọc
Chánh
Tâm
Xuân
Nguyên
Kim
Văn
Hóa
Dân
Gian
Tục
Lệ
Tết
Trần
Ngọc
Chánh
Phỉnh
Nguyễn
Thị
Tuyết
Mai
Ấp
Ngoài
Nguyễn
Thục
Hội
Ngộ
Ninh
Ḥa-Dục Mỹ
Hội Đồng Hương
NH-DM,
Nơi Nh́n
Lại Một Thời...
Nguyễn Hồ
Bảo
Đại
Hội -
Tiểu
Hội
Topa Panning
Cắm
Hoa
Trang
Trí
Nghệ
Thuật
Cắm
Hoa
Hải
Lộc
Tranh
Nghệ Thuật
Tranh
Ảnh
Nghệ
Thuật
Phi
-
Ṛm
Hoa Xuân
Ngày
Tết
H́nh
Ảnh
Xuân
Sử
Xương
Hải
Thơ
Vui
Con
Mèo
Trèo Cây
Cau
Nam
Kha
Nhậu
Một
Ḿnh
Phạm
Thanh
Phong
Chung
Vợ
Chung
Chồng
Mai
Thái
Vân
Thanh
Chất
Vấn
Ngọc
Hoàng
Dương
Công
Thi
Đốt Tràng Pháo
Chuột
Mừng Nhà
Mẹo
Tú
Trinh
Mèo Ngao Lật
Đổ Loài
Cọp Dữ
Tú
Trinh
Ca
Hát/Nhạc
Nhạc Xuân Và Quê
Hương
Thu
Thủy,
Lan
Đinh
Thanh
Nhàn,
Lư
Hổ
Tân Cổ: Không Tên
Nguyễn
Hương
Phương
Ngữ
Ninh
Ḥa
Một
Số
Từ
Biến
Âm:
PHỈNH
Nguyễn
Văn
Thành
Tôn
Giáo
Kỷ Niệm Chuyến
Du Xuân
Đà Lạt
Đinh
Hữu
Ân
Năm
Tân
Măo
Nói
Chuyện
Mèo
Ba
Chị
EmTuổi
Măo
Lữ
Thanh
Cư
Tán Ngẫu Về
Loài Mèo Cho
Năm Mới
Trần
Việt
Hải
Năm
Mèo Tản Mạn
Về Mèo
Vinh
Hồ
Ngũ Phụng Thư
Trần
Thị
Phong
Hương
Nỗi
Niềm Năm Con
Thỏ
Thục
Minh
Tản
Mạn
Về
Tết
Tân
Măo
Nguyễn
Văn Thành
d_bb
Đ.H.K.H
Mùa
Xuân
Nào
Trên
Quê
Hương
Tô
Đồng
Liêu Trai Chí
Dị-415
Đàm
Quang
Hưng
Thanh
Phong
Thi
Tập-57
Vũ
Tiến Phái
Hạnh Xả
Nguyễn
Văn Phú
Ngũ Phúc
Lê
Phụng
Tết
Nhất
Nguyễn
Hữu Quang
Kinh
Nghiệm
Sống
Đi
T́m
Sự
Thật
Tâm
Đoan
Chăm
Sóc
Người
Cao
Tuổi
BS Đỗ
Hồng
Ngọc
Ngày
Tết
Tôi
Đi
Nằm
Viện
Phan
Nho
Tâm
B́nh
Thế
Giới
B́nh
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Số
Mạng
Nguyễn
Tính
Văn
Hóa
Ẩm
Thực
Món
Chay
Ngày
Tết
Lê
Thị Đào
Đừng
Quên
Xà
Lách
Xoong
Việt
Hải
Lucky
Money
Đinh
Thị
Lan
Kim
Chi
Hàn
Quốc
Hoàng
Lan
Rau
Muống
Ngâm
Chua
Hoàng
Lan
Thịt
Quay
Kho
Dưa Cải
Chua
Hoàng
Lan
Đậu
Hủ
Trứng
Nguyễn
Y
Lang
Bánh
Tét
Tôi
Gói...
Phi
-
Ṛm
Sức
Khỏe
Viêm
Gan
Siêu
Vi
B
BS Nguyễn
Vĩ
Liệt
Biên
Khảo
Kinh
Tế
Việt
Nam
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Việt
Nam
Năm 2010
Nguyễn
Văn Thành
Hoa
Kỳ/Thế
Giới
Tổng
Kết T́nh
H́nh
Kinh
Tế
Của
Mỹ
Quốc Năm 2010
Nguyễn
Văn Thành
Tài
Nguyên
Nghề
Dệt
Lá
Buồm
Dương
Công
Thi
Ruộng
Muối
Ḥn
Khói
Lê
Phú
Thọ
Viết
về
Ninh
Ḥa
Con
Mèo
Mun
Nơi
Lăng
Bà
Vú
Quách
Giao
Ḥn Vọng Phu
Lê
Văn
Ngô
Phủ
Ninh Ḥa
Lê
Văn
Ngô
Bưởi Trái Mùa
Dương
Công
Thi
Viết
về
ninh-hoa.com
Thư
Xuân
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Ninh
Ḥa
Xa
Mà
Gần
Phan
Trang
Hy
Kỷ
Niệm
Về
Trường:
Trần
B́nh Trọng
Ninh Ḥa
Một
Mùa Xuân Vắng
Cành Mai
Trần
Hà Thanh
Kư
Ức
Liên
Trạch
Các Trường
Khác
Tôi
Đi
Giữa
Trời
Bồi
Hồi
Lương
Lệ Huyền Chiêu
Bến
Sông
Xưa
Nguyễn
Thị
Tuyết
Hoa
Thi
Nhạc
Giao
Duyên
Ninh
Ḥa,
Ninh
Ḥa
LMST-Thơ:
LL
Huyền Chiêu
Văn
Học
Nghệ
Thuật
Ngày
Xuân Nói Chuyện
Trầu Cau
Nguyễn
Tấn Ka
Sự
Cô Đơn Và
Khát Vọng
Đợi Chờ...Trong
Thi Phẩm
BẾN ĐỢI
Lê
Miên
Khương
Đọc
BẾN ĐỢI 2 Của
Kim Thành
Và TT Phú Sĩ
Trần
B́nh Nam
Tát
Nước
Đầu
Đ́nh
Phạm
Thị
Nhung
Mộ
Xuân
Mạn
Hứng
Dương
Anh
Sơn
Xuân
Tiêu
Lữ
Thứ
Dương
Anh
Sơn
Giai
Thoại
Bài
Thơ
Phong
Kiều
Dạ
Bạc
Trí Bửu
Nguyễn
Thừa
Ư
Của Thơ
Nguyễn
Tính
Mùa
Xuân
Và
Thi
Ca
Người
Xứ
Vạn
Dạ Khúc T́nh
Xuân
Tiểu
Vũ
Vi
Tưởng
Niệm
Anh
Ơi,
Đừng
Đi
Nguyễn
Thị
Thu
Thơ
Giao
Thừa
Đinh
Hữu
Ân
Gởi
Bạn
Thân
Dương
Công
Bản
Giông
Tố
Khắc
Họa
Nguyễn
Thị
Bảy
T́nh
Biển
Thanh B́nh
Viết
Cho Anh
Lê
Tấn
Cam
Hai
Chiếc
Áo
Nguyên
Chất
T́nh
Yêu Buổi Sáng
Trần
Thị
Chất
Đổi
Thay
Hương
Đài
Cuối
Trời
Hương
Đài
Sầu
Đông
Lê
Thị
Đào
Thơ
Chờ
Xuân
Trần
Minh
Hiền
Tiễn
Con
Nguyễn
Thị
Tuyết
Hoa
Bềnh
Bồng Đón Xuân
Tường
Hoài
The
Poem Of NumBer
5
And Number
6
Vinh
Hồ
Nem
Chua
Ninh
Ḥa
Nguyễn
Thế
Huy
Về
!
Nguyễn
Hương
Xuân
Gơ
Cửa
Quỳnh
Hương
Ninh
Ḥa
Tôi
Mơ
Phan
Trang
Hy
Thị
Trấn
Bằng Lăng Tím
Nguyễn
Tấn Ka
Xuân
Trở
Về
Nam Kha
Ta
Muốn
Hỏi
Nguyễn
Y Lang
Chúa
Xuân
Có
Biết?
Hồn
Nhiên
Nguyễn
Liệp
Xuân
Nồng
Đàm
Thị
Ngọc
Lư
Sáu
Bài
Thơ
Xuân
Nguyễn
Thị
Khánh
Minh
T́nh Thơ
Lê
Văn
Ngô
Cây
Cỏ Cũng Vui
Lây
Như
Nguyệt
Chùm
Thơ
Như
Nguyệt
Xuân
Nhớ
Mẹ
Phan
Nho
Ta
Về
Đêm
30
Phan
Tưởng
Niệm
Thư
Xuân
Cho
Con
Phan
Tưởng
Niệm
Núi
Cô Tiên
Nguyễn
Hoàng
Phi
Điệp
Khúc
Mùa
Xuân
Bích
Phượng
Dĩ
Văng
Mùa
Xuân
Nguyễn
Quân
Hạnh
Phúc
Mùa
Xuân
Nguyễn
Quân
Tranh Cố Hương
NhàQuê
Đá Vàng
Cô
Kim
Thành
Thuở Ấy Học
Tṛ
Cô
Kim
Thành
Xuân Phai
Vơ
Ngọc
Thành
Mùa Xuân Nhớ
Mẹ
Trần
Đ́nh
Thọ
Anh
Là
Mùa
Xuân
Hoài
Thu
Em
Không
Về
Nguyễn
Thị
Thu (VN)
Nhớ
Quê
Ngô
Trưởng
Tiến
Sầu
Tha Hương
Nguyễn
Tính
Nỗi
Nhớ...Mùa
Xuân
Hoàng
Trang
Xuân
Chưa
Trọn
Vẹn
Nguyễn
Thị Tri
Thềm
Xuân
Luyến
Mộng
Du
Sơn
Lăng
Tử
Xuân
Viễn
Vọng
Du
Sơn
Lăng
Tử
Mộ Xuân
Hoài
Cảm
Tiểu
Vũ Vi
Văn
Đi
Qua
Ngày
Giông
Băo
Lê
Thị
Mỹ
Châu
Những
Ư
Nghĩ
Vụn
Cuối
Năm
Việt
Hải
Giữ
Lấy
Mùa
Xuân
Cao
Minh
Hưng
Người
Thầy
Dạy
Búp
Bê
Phan
Trang
Hy
Nẻo
Về
Đinh
Thị
Lan
Nhanh
Quá
Những
Mùa
Xuân
Lê
Thị
Lộc
Chuyện
Kể Trong Ngày
Xuân
Thục
Minh
Bạch
Miu
Topa
Panning
Khúc
Loanh
Quanh
Lê
Văn
Quốc
Bếp
Lửa
Chiều
Đông
Trương
Thanh
Sơn
Chuyện
Đầu
Năm
Lâm
Minh
Tài
Đi
Qua Những B́nh
Yên
Hoa Cúc
Nguyễn
Hữu
Tài
Mỗi
Độ
Xuân
Về
Thi
Thi
Hạt
Bụi
Trong
Tim
Tiểu
Thu
Một Bông Hồng
Cho Đại Hội
Thụ Nhân
2010 Tại Úc
Người
Xứ
Vạn
Chuyện Xóm Cầu
Gỗ
Nguyễn
Thị
Cẩm
Vân
Thư từ,
bài vở, h́nh ảnh hoặc
ư kiến xây dựng, xin liên lạc:

diem27thuy@yahoo.com

|
ào
khoảng thế kỷ thứ 18, 19, lần thứ nhất dân tộc ta khốn khổ
v́ Trịnh Nguyễn phân tranh, với sông Gianh là ranh giới. Đến
giữa thế kỷ thứ 20, chính chúng ta lại sống trong cảnh sông
Bến Hải ngăn đôi hai miền Nam Bắc. Lần thứ hai này v́ lư do
nội chiến th́ ít, mà bởi ư thức hệ và các thế lực ngoại lai
th́ nhiều. Tuy ở thời điểm đó sự đi lại trong nước c̣n thiếu
đủ phương tiện, giấy má khám xét rất là khó khăn, nhưng
người dân c̣n có thể lựa chọn việc đi hay ở. Riêng tôi,
nguyên là sinh viên Hà Nội, cách đây đúng năm mươi mùa xuân,
bỗng nhiên lại may mắn được ăn một cái tết trên cả ba miền
đất nước. Để mà có dịp dễ dàng quyết định cho việc chính
ḿnh nên ra đi hay ở lại, cũng như được nh́n tận mắt phong
trào di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc. Vậy xin kể lại mấy
nét xuân từ thuở đó.
Kẻ ở người đi
Khi Hiệp Định Genève
được kư kết vào ngày 21 tháng 7 năm 1954 giữa Thứ Trưởng Quốc Pḥng Tạ
Quang Bửu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và Tướng Henri Delteil của Pháp,
Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Phía Bắc vĩ tuyến 17 thuộc phe Cộng
Sản, phía Nam thuộc phe Quốc Gia. Lực lượng Cộng Sản và đồng bào tập kết
ra Bắc sẽ do Quân Đội Việt Minh đảm trách, trong hạn 200 ngày từ Cà Mâu,
300 ngày từ Trung Bộ. Lực Lượng Quốc Gia và đồng bào di cư vô Nam sẽ do
Quân Đội Viễn Chinh Pháp đảm nhận, trong hạn 80 ngày phải rời khỏi Hà Nội,
100 ngày rời khỏi Hải Dương, và 300 ngày rời khỏi Hải Pḥng. Tuy có thời
gian để chọn lựa trước khi bức màn tre buông xuống vùng đất Cộng Sản, rất
nhiều gia đ́nh chịu cảnh ly tan v́ có kẻ ra đi người ở lại. Dân Nam tập
kết lo lắng, dân Bắc di cư hoang mang. Nhưng lo sợ nhất là người dân thành
phố, và những quân công cán chính của chính phủ Quốc Gia mới được h́nh
thành trước đây ít năm. Đi th́ công ăn việc làm ra sao, mà ở lại th́ chế
độ Cộng Sản liệu có buông tha cho được sống yên ổn? Hay miễn cưỡng phải đi
mít tinh, dự học tập, làm kiểm thảo suốt ngày, đâu chỉ có đua vui nhẩy ḥa
b́nh Son Đố Ḿ. Trước Hiệp Định chừng một tháng, Ngô Đ́nh Diệm mới được
Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm làm Thủ Tướng. Nhưng trên thực tế th́ t́nh
h́nh đất nước lúc này vô cùng rối ren v́ sự tranh chấp dữ dội của các đảng
phái Quốc Gia, v́ sự chuyển quyền chậm chạp từ tay người Pháp, và sự can
thiệp gián tiếp của người Mỹ. Và đă chẳng một ai tin Hiệp Định sẽ văn hồi
nổi ḥa b́nh cho Việt Nam qua Tổng Tuyển Cử dự trù hai năm sau.

Lúc này, một số sinh
viên trường Quân Y và tôi đang theo học khóa huấn luyện quân sự tại trường
Liên Quân Đà Lạt (EMIAD, Ecole Militaire Inter-Armes de Dalat). Từ đây tôi
mất hẳn sự liên lạc trực tiếp với gia đ́nh ở ngoài Bắc. Tin tức nhận được
th́ khi vui khi buồn, mà qua một số bạn bè vô Nam kể lại, đôi lúc tôi thấy
việc gia đ́nh ở lại là một lầm lẫn. Tôi học bên quân Dược nên muốn xin
phép ra Bắc thăm thú t́nh h́nh cũng khó để được chấp thuận. Nếu tôi theo Y
khoa, th́ chỉ cần xin làm 'hộ tống viên' (convoyeur) là đă có cơ hội được
đi ra Bắc, có thù lao để phụ trách y tế trên các con tầu há mơm chở đồng
bào di cư vào Nam. Như vậy có thể tai nghe mắt thấy cảnh đồng bào bỏ quê
chạy Cộng Sản, và dễ có quyết định nên đi hay nên ở. Vả lại, t́nh h́nh
trong Nam lúc này đang c̣n rối ren và cũng chẳng sáng sủa tốt đẹp ǵ, nên
nhiều bạn tôi cho rằng có lẽ gia đ́nh ở lại miền Bắc là yên ổn hơn. Dân
chúng hết sức hoang mang, v́ có người đă vô Nam lại trở ra Bắc, có người
đă ra Bắc lại vô trở lại Nam. Thế mà vào những năm sau, c̣n nhiều người
phải liều mạng vượt tuyến để về miền đất Tự Do, khi cầu Hiền Lương và hai
bờ sông Bến Hải đă chính thức trở thành vùng phi quân sự.
Xuân về trên ba miền
đất nước
Tết năm 1955 là tết
đầu tiên tôi xa gia đ́nh, nhưng là một cái tết thật đặc biệt với tôi. Thế
th́ tại sao tôi không ghi chép hay viết lại một chút ǵ ngay thời buổi đó?
Có thể v́ ḿnh không phải là nhà văn nhà báo? Đă hơn năm mươi năm trôi qua
từ độ ấy, nhiều nhân danh, địa danh tôi có thể không nhớ cho đúng, nhưng
những nét chính của câu chuyện th́ khó mà quên được. Tôi đang ở trọ tại
một căn nhà đường Ngô Tùng Châu Sài G̣n để học tiếp ngành Dược. Mùa xuân
mới đă tới trong cái nắng gay gắt của Sài G̣n. Tôi chưa h́nh dung được rồi
ḿnh sẽ ăn tết ra sao, mà cũng không thấy bà chủ trọ sửa soạn ǵ đặc biệt
để mừng năm mới. Trong thời gian này, hầu hết dân vừa di cư chẳng mấy ai
nghĩ đến chuyện tết nhất, v́ c̣n đang cố gắng thích nghi với đời sống mới,
c̣n phải ở tạm các căn nhà nghèo nàn, chật hẹp và nóng nực. Như trong khu
Bàn cờ, ngă ba Ông Tạ, chợ Cầu Kho với ngơ hẻm quanh co, nhỏ hẹp và lầy
lội sau những cơn mưa. Vào ngày 28 Tết, chợt bác sĩ Can, người chú về bên
mẹ tôi, tới hỏi tôi có muốn theo phái đoàn của ông ngày mai du ngoạn ra
Bắc. Chú thím tôi sẽ tháp tùng Đức Tổng Giám Mục Rhodain của Cao Ủy Tỵ Nạn
Liên Hiệp Quốc, hiện có mặt tại Việt Nam để thăm viếng các trại tị nạn từ
Bắc tới Nam vào dịp tết. Sau này, có lúc tôi nhớ lầm là Đức Tổng Giám Mục
M. Feltin của địa phận Paris. Trong phái đoàn, tôi sẽ làm thông dịch viên
cho Đức Tổng Giám Mục Pháp. Chú Can tuy hơn tôi cả mười lăm tuổi, nhưng
rất thân thiết với tôi từ những ngày chú hồi cư về Hà Nội. Lúc mới vào
Nam, chú làm Tổng Thanh Tra Phủ Tổng Ủy Di Cư, một cơ quan tọa lạc trên
đường Phan Thanh Giản (Le Grand De La Liraye) gần trường trung học Gia
Long. Có lẽ thấy tôi thường than phiền v́ Hiệp Định Genève mà phải lưu lạc
một ḿnh, nên chú bảo tôi hăy nhân dịp ra Bắc này mà quan sát t́nh h́nh
xem sao. Tôi có thể liên lạc và t́m cách đón cả gia đ́nh vào Nam, hay nếu
muốn cũng có thể trở về sống cùng gia đ́nh ở Hà Nội.
Sáng 29 Tết, đèn
đường vừa tắt, trời mới tờ mờ sáng, chú thím Can đă đến đón tôi tại căn
nhà trọ. Tôi mặc một bộ âu phục nâu nhạt, thắt chiếc cà vạt mầu đỏ điểm
chấm trắng, mang theo một túi hành lư nhỏ, rồi leo lên chiếc Jeep xanh đậm
của Phủ Tổng Ủy Di Cư. Xe chạy nhanh qua các khu phố im vắng đầy bóng nhạt
lấp lánh của nhà lầu cây cao, trên mặt đường c̣n ướt đẫm sương đêm. Chúng
tôi vào trong dinh Gia Long để đón Đức Tổng Giám Mục lên đường. Chỉ vài
phút sau, ngài đă đi từ cầu thang trên gác xuống pḥng khách, niềm nở bắt
tay và chào hỏi từng người. Ngài hồng hào khỏe mạnh, nét mặt hiền hậu, lời
nói khoan ḥa. Phái đoàn lên xe ra thẳng phi trường Tân Sơn Nhất. Nơi đây,
Tướng Paul Ely, Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, đă dành sẵn chiếc máy bay
trang bị đặc biệt, bàn ghế có đệm bọc nhung đỏ tráng lệ, cùng phi hành
đoàn riêng của ông để Đức Tổng Giám Mục sử dụng trong suốt cuộc hành tŕnh.
Một Đại Úy Pháp là sĩ quan hầu cận cho
ngài, sau này đă trở thành người bạn đồng hành nhất thời của tôi. Chuyến
bay thật êm ả, v́ thời tiết lúc đó tuyệt hảo. Sau mấy giờ máy bay đă vào
tới không phận Hải Pḥng, rồi nhẹ nhàng đáp xuống phi trường Cát Bi. Nh́n
qua khung cửa xuống vịnh Bắc Việt phía dưới, tôi chợt nghĩ nếu được đi
thăm thắng cảnh Hạ Long trước khi phải rời bỏ đất Bắc th́ thú vị biết bao.
Một kỳ quan của đất nước mà tôi chỉ mới biết qua sách vở báo chí. Phái
đoàn được các nhân vật cao cấp trong chính phủ đến tận sân bay đón rước.
Rồi mấy chiếc công xa mang biển số VNB đă đưa chúng tôi về ngay Ṭa Đại
Biểu Bắc Phần, qua những con đường rộng răi mà sinh hoạt như ngưng đọng.
Hải Pḥng trông giống một thành phố chết. Tuy vậy, dọc hai bên phố cũng có
chỗ dân chúng tụ tập đông đảo chào mừng đoàn xe của Đức Tổng Giám Mục.

Chúng tôi đă lần
lượt đi thăm một số các trại tạm cư được dựng lên với những dẫy lều vải
nhà binh. Các trại này ở rải rác chung quanh Hải Pḥng, nhiều trại được
thiết lập tại các khu đất trống từ phi trường vào đến thành phố. Mỗi trại
lại chia ra làm nhiều khu nhỏ, ngăn cách bởi những hàng rào dây thép gai
bao quanh, có lẽ để tránh sự lẫn lộn hay va chạm của các dân tị nạn từng
địa phương. Đồng bào chờ được di cư đa số quê quán tại vùng đồng bằng sông
Hồng. Người ta vui mừng và kính cẩn cúi chào khi được Đức Tổng Giám Mục
thăm hỏi. Tôi thấy cả dân bên lương bên giáo, người già trẻ em, có gia
đ́nh hay độc thân. Gia tài họ mang theo được đặt trên các phản gỗ sơ sài.
Thường chỉ là một ít hành lư trong những chiếc bị hoặc tay nải nhỏ, và một
số vật dụng thường nhật thật nghèo nàn. Tôi đă len lỏi qua nhiều trại để
t́m hiểu về t́nh trạng ăn ở hiện tại, về nguyện vọng trong tương lai của
đồng bào. Và khi vội chui qua một hàng rào kẽm gai, v́ bất cẩn, tôi đă để
áo bị móc rách một vết, sau này tôi phải đem mạng lại tại một hiệu may
đường Tự Do (Catinat). Phái đoàn chúng tôi được khoản đăi thật chu đáo bởi
Ṭa Đại Biểu Bắc Phần, hết tiệc lớn lại đến tiệc nhỏ. Để mừng xuân, có
nhiều thức ăn khai vị khoái khẩu, nho táo nhập cảng và rượu tây rượu lễ đủ
loại. Đa số các công chức trong chính quyền và các vị chức sắc Công giáo
đều nói thông thạo tiếng Pháp, nên nhiệm vụ của tôi quả thật là nhẹ nhàng.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới được Đức Tổng Giám Mục hỏi chuyện. Những ngày
giáp tết tại Hải Pḥng, tôi đă cố t́m cách bắt liên lạc với gia đ́nh mà
không kiếm được ai quen để cho tin tức. Tôi cũng không dám mạo hiểm đi xe
hỏa về lại Hà Nội, sợ bị khám xét ngặt nghèo, nên đành bỏ hi vọng có thể
bàn tính đi hay ở cùng với bố mẹ và anh chị em.
Nhưng tết đă đến
thật rồi, trong một thành phố đang ră rời v́ dân chúng bỏ vào Nam gần hết.
Trời miền Bắc vô tâm, vẫn chuyển sang mùa xuân hi vọng của ṿng tuần hoàn
thời gian, mà không gian c̣n như tươi trẻ tuyệt đẹp. Tuy người ta không
nghe tiếng pháo nổ, không thấy chợ hoa náo nhiệt hay cảnh ngựa xe tấp nập
và áo quần sang trọng, nhưng đó đây không khí vẫn mang đầy hương sắc. Của
riêng mùa xuân miền Bắc. Trời hơi se lạnh, thỉnh thoảng thoáng có mưa bụi
nhẹ như những hạt sương bay, chẳng làm ướt áo người lữ thứ. Chỉ tiếc rằng
dân tị nạn không c̣n ḷng dạ nào mà vui đón xuân. Họ vốn ngổn ngang những
ưu tư về tương lai bất định và mang mang niềm tâm sự của giờ phút chia ly
thật dài.
Sáng mồng một Tết
chúng tôi ra phi trường Cát Bi để lên máy bay về Huế. Miền Trung cũng đă
giúp một số bà con miền Bắc định cư. Xuống phi trường Phú Bài, chúng tôi
được các vị chức quyền tại Ṭa Đại Biểu Trung Phần tiếp đón và đưa về
khách sạn Morin. Lại tiệc tùng chúc tụng mừng xuân. Đây là lần đầu tiên mà
tôi có dịp ăn tết ở Huế. Khí hậu rất dịu dàng, không nóng mà cũng chẳng
lạnh. Bầu trời trong sáng đặc biệt, nhưng ít thấy khách du xuân và tiếng
nói cười trên đường phố. Người ta theo lệ đă mồng một ăn tết ở nhà. Trên
vỉa hè ngày đầu năm, tôi không để ư thấy xác pháo hồng, nếu pháo đă được
đốt từ đêm giao thừa? Gió mát thổi nhẹ nhàng lên từ phía sông, thời tiết
khác hẳn cảnh nắng bốc cháy ngày hè hay mưa tầm tă mùa đông. Tôi đă không
lợi dụng dịp này để thăm viếng một số bè bạn mà tôi đă hân hạnh làm quen
mùa hè vừa qua. Vả lại, phái đoàn lúc nào cũng bận rộn làm việc từ sáng
tới chiều. Vào lúc chập tối, sau bữa cơm chiều, vị Đại Úy tùy viên người
Pháp đă chở tôi dạo chơi qua mấy khu phố chính. Chúng tôi tṛ chuyện về
chuyến đi. Thành phố đă lên đèn, hàng quán đều đóng cửa. Người dân dường
như ngủ sớm, có lẽ chỉ c̣n mấy con đ̣ của ca nhi là sống động. Rồi xe
chúng tôi chạy dọc theo con đường tối vắng bên sông Hương xuống tới chùa
Thiên Mụ. Bóng tháp lặng lẽ vượt lên thinh không, tất cả mờ ảo trong thời
gian như ngừng trôi. Tại Huế, phái đoàn c̣n có thăm viếng một số các Trại
Cô Nhi Quả Phụ của Công giáo. Sự tổ chức chu đáo, cách đối xử với người
thụ hưởng nhân hậu, làm tôi vô cùng bội phục các vị quản trị nơi đây.


Mồng 2 Tết, phái
đoàn đi từ Huế vào Đà Nẵng qua đèo Hải Vân, bằng mấy chiếc xe nhà binh Âu
Mỹ loại Hotchkiss, Chrysler, Peugeot. Chiếc máy bay riêng đă được chuyển
từ Phú Bài về đợi Đức Tổng Giám Mục tại Phi Trường Đà Nẵng. V́ ngài muốn
dùng đường bộ để mục kích cảnh trời xanh mây trắng lẩn vào núi mà phía
dưới là biển Thái B́nh xanh biếc bao la. Tới đèo, trời xuân trong sáng và
dịu mát. Đoàn xe leo nhanh với tiếng rú ga rất gấp trên con đường hẹp lại
thật dốc và quanh co. Từ trạm nghỉ trên đỉnh cao, lúc đổ dốc, thỉnh thoảng
tiếng thắng lại rít lên qua các khúc quanh hiểm nghèo. Những chiếc xe nối
đuôi nhau, lao nhanh như tên bắn. Nhưng người ngồi xe có cảm giác an toàn
v́ xe chạy như bám dính lấy mặt đường, tôi thật phục tài mấy ông tài xế
nhà binh Pháp. Xuống hết đèo, khí hậu bắt đầu nóng nực hơn lúc ở Huế. Đến
đầu thị xă, phái đoàn dừng lại ít phút khi được Henri Delteil, vị Tướng
Quân Đội Viễn Chinh Pháp đă kư vào Hiệp Định Genève nghênh đón. Sau đó,
phái đoàn được các vị chức sắc tại Đà Nẵng tiếp rước để đưa về Ṭa Tỉnh
Trưởng. Lại tiệc tùng chúc tụng linh đ́nh. Và cũng được nghe báo cáo về
t́nh trạng di cư chung trong vùng này. Tại đây, ngoài các trại tạm cư,
phái đoàn c̣n đi thăm một số Cơ Sở Từ Thiện do mấy vị Linh Mục và bà Sơ
hướng dẫn. Đà Nẵng là một thành phố rất đẹp có nét tây phương của miền
Trung. Là nơi tôi đă ở chơi với Tiểu Đoàn Thiết Giáp của Đại úy Nguyễn Duy
Hinh khi di chuyển từ Bắc vô Nam về đóng trại ở sân Vận Động thành phố vào
dịp hè năm trước. Cũng là nơi tôi làm việc sau khi ra trường ở Đại Đội Kho
Y Dược 21 (DAS, Dépôt d'Approvisionnement Sanitaire) hai năm sau.
Sáng mồng 3 Tết,
phái đoàn ra Phi Trường Đà Nẵng, và lên máy bay về Sài G̣n. Chuyến bay nhẹ
nhàng êm ả. Tại Phi Trường Tân Sơn Nhất, chúng tôi chào từ biệt Đức Tổng
Giám Mục địa phận Paris, rồi ra xe của Phủ Tổng Ủy Di Cư đă chờ sẵn. Tôi
trở về ngay nhà trọ, thấy c̣n ngày giờ để cùng bạn bè tiếp tục vui xuân.
Sài G̣n chỉ c̣n rất ít không khí tết, v́ mùa nắng vô t́nh đă làm giảm bớt
vẻ đẹp đầu năm. Chợ Hoa Nguyễn Huệ (Charner) được dẹp từ chiều 30. Những
buổi lễ xin quẻ hái lộc ở chùa chiền, Lăng Ông cũng đă thưa thớt. Phố xá
vắng vẻ, trường học công sở chưa mở cửa làm việc lại. Nhiều hàng quán c̣n
nghỉ tết. Nhưng ánh nắng chói chang vẫn thoáng làm nổi bật mầu trắng trinh
nguyên của những chiếc áo bà ba mới trên người thiếu nữ miền Nam. Và ban
đêm, nơi thủ đô hoa lệ vẫn ồn ào v́ Ṣng Bài Đại Thế Giới, v́ các dàn nhạc
Phi Luật Tân tại nhiều vũ trường...

Nhiệm vụ tôi trong
chuyến đi tháp tùng Đức Tổng Giám Mục của địa phận Paris vừa qua thật quá
dễ dàng. V́ thời ấy, người Việt đa số thông thạo tiếng Pháp, tôi lại chẳng
phải viết báo cáo, hay phóng sự ǵ. Nhưng riêng tôi th́ được hưởng một mùa
xuân mới trên cả ba miền đất nước thân yêu. Để có thêm niềm tin ra đi là
đúng, tuy tôi tiếc không được gập bố mẹ chị em khi gia đ́nh quyết định ở
lại Hà Nội. Mấy năm sau khi tôi sang Paris du học, tôi không nghĩ Đức Tổng
Giám Mục nay là một Hồng Y có c̣n nhớ ǵ đến cậu sinh viên trẻ là tôi,
từng làm việc thông dịch nhân dịp ngài thăm viếng Việt Nam thời di cư.
Những mùa xuân qua
Từ đầu năm 1955 đă
xẩy ra biết bao nhiêu biến cố bất ổn và xáo trộn tại miền Nam do các đảng
phái, giáo phái. Phải sau cuộc Trưng cầu dân ư truất phế Bảo Đại, vào ngày
26 tháng 10 năm 1955, Việt Nam Cộng Ḥa mới chính thức được thành lập.
Thời gian kế tiếp, tôi được ăn những Tết Sài G̣n, Tết Paris, Tết Đà Lạt.
Những cái tết đặc biệt rất vui vẻ của Sài G̣n, xem chợ Hoa Nguyễn Huệ, đón
giao thừa tại chùa Xá Lợi, đi xin quẻ tại Lăng Ông. Và những cái tết tha
hương nhưng an b́nh của Paris, dạ vũ tại Nhà Đông Dương, Hội xuân tại
Maubert Mutualité. Hay Tết Đà Lạt đầy hoa mai, pháo nỗ, và khu chợ trung
tâm đông nghẹt người mua sắm.

Nhưng xuân 1975 tại
Sài G̣n hai mươi năm sau lại là một cái tết mà tôi không thể quên được.
Chiến tranh mà ai nấy đă chán ngấy đang tràn dần về thủ đô. Dân Sài G̣n ăn
tết trong tâm trạng chờ đợi một biến cố không vui. Tôi có cảm tưởng như
cây mùa xuân của Trường Dược Sài G̣n năm ấy đă nhiều phần ít đâm chồi nẩy
lộc, không khí nhộn nhịp ngày tết thật kém hẳn so với những năm trước, và
nét lo lắng thoáng hiện ra trên vẻ mặt của nhiều nhân viên và sinh viên
nhà trường. Rồi biến cố tháng tư ập xuống nhanh như cơn băo tố, việc bỏ
nước ra đi hay ở lại phải toan tính trong khoảnh khắc. Bỗng nhiên bao
nhiêu gia đ́nh ly tan. Ḥa b́nh ló dạng mà mạnh ai người ấy chạy. Đâu c̣n
thời gian sửa soạn, hay được cấp phương tiện di tản như thời di cư. Chú
tôi, người Tổng Thanh Tra Phủ Tổng Ủy Di Cư năm xưa, cố xoay sở t́m đủ
cách mà rồi cả gia đ́nh đều bị kẹt lại. Tất cả phó thác cho định mệnh! Đâu
là quyền được tự do lựa chọn?
Từ dạo đó đến nay,
đă ba mươi mùa xuân nơi đất khách. Tại Hoa Kỳ, những Hội Tết của người
Việt theo thời gian ngày càng đủ mầu sắc lệ bộ. Tôi không quên buổi Họp
Mặt Tết thứ ba mươi này, Tết Ất Dậu 2005 với Hội Dược Sĩ Việt Nam tại Hoa
Kỳ. Ban Chấp Hành và Hội Đồng Quản Trị tài ba trẻ trung. Ban Báo Chí và
Ban Văn Nghệ xuất sắc. Đă mang lại cho giới chúng ta một mùa xuân hi vọng.
Để cho tôi mơ đến một mùa xuân nào thanh b́nh trên quê hương?
San
Diego, 9-27-2005
Tô Đồng
Trở về
Trang d_bb ĐHKH

  
Trang XUÂN 2011- Văn Học Nghệ Thuật
Và Quê Hương
|
|