trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com

Dương Anh Sơn

 Giáo Sư Triết học
 Trung học Ninh Ḥa
 Niên khóa 1973-1976
 Chỉ đạo lớp 12C, 74-75

 Sở thích viết và
chuyển dịch Thơ.

Đă xuất bản:

"Ảnh hưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân Thanh" (2006) và

"Ức Trai Thi Tập của Nguyễn Trải" (dịch và chú giải 2009)

 


 
Hiện cư ngụ tại Việt Nam

 

 

 

 

 

 

THỜI KỲ VUI THÚ ẨN DẬT
Ở CÔN SƠN
(Khoảng 1438 - 1442)
Dương Anh Sơn

   


 

 

 

Bài 78 :

 

CÔN SƠN CA

山 歌

 

1. Côn Sơn hữu tuyền kỳ thanh lănh lănh nhiên, ngô dĩ vi cầm huyền.

山月泉,冷冷 , 吾以琴弦

 2. Côn Sơn hữu thạch, vũ tẩy đài phô bích, ngô dĩ vi điệm tịch

山有石,雨洗苔,吾以簟席

3. Nham trung hữu tùng, vạn lư thúy đồng đồng, ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.

岩中有,萬翠童童,吾於是乎偃息其中

4. Lâm trung hữu trúc, thiên mẫu ấn hàn lục, ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc.

林中有竹,印寒錄,吾於是乎吟

5. Vấn quân hà bất qui khứ lai, bán sinh trần thổ trường giao cốc.

君何不來,半生長膠

6.  Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên, ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.

萬鐘九鼎何必然,飲分足

7.  Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ, Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc

君不董卓金盈一塢,胡椒八百斛

8.  Hựubất kiến Bá Di dữ Thúc tề, ThủDương ngạ tử bất thực túc.

又不伯夷齊,陽餓死不食粟

9. Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu, diệc các tự cầu kỳ sở dục.

者不相侔,亦各自求其所欲

10. Nhân sinh bách tuế nội, tất cánh đồng thảo mộc.

人生百歲內,畢竟同草木

11. Hoan bi ưu lạc điệt văng lai, nhất vinh  nhất tạ hoàn tương tục.

歡悲憂樂迭往來﹐謝還

12.  Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên.

      Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục

丘山屋亦偶然,死 誰榮

13.  Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,

       Khuyến cừ thính ngă sơn trung khúc.

若有巢由徒, 我山中曲

 

DỊCH THƠ:

 

Bài ca Côn Sơn

 

1                     Côn Sơn có suối ŕ rào,

Ta nghe vang vọng lao xao tiếng đàn.

Côn Sơn mưa gội, rêu lan,

4           Ta ngồi làm chiếu, đá tràn xanh om.

Dặm ngàn tùng biếc giữa non,

Ta dừng ngơi nghỉ ở trong chốn này.

Trúc xanh ngàn mẫu dấu bày,

8           Ta ngâm ḥ hát bên cây mát vời.

Hỏi anh – sao chẳng về thôi?

Bám theo đất bụi nửa đời buộc giăng?

Muôn chung, chín đỉnh nào cần!

12.              Phận tùy uống nước, rau ăn đủ liều.

Thấy không: Đổng Trác vàng nhiều,

Tám trăm - Nguyên Tải hồ tiêu hộc tràn.

Bá Di, họ Thúc thấy chăng?

16.       Thú Dương chết đói chẳng ăn gạo rồi !

Hiền, ngu: hai kẻ đôi nơi!

Đều t́m ham muốn cho người ḿnh thôi!

Trong ṿng trăm tuổi con người,

20        Rốt cùng cũng giống như đời cỏ cây!

Vui, buồn, lo, sướng, đổi thay!

Vẻ vang, tàn tạ, quay về nối nhau.

Thế rồi g̣ núi, nhà cao,

24        Ai vinh, ai nhục mai sau qua đời?!

Sào, Do, nếu có cơi người,

 26       Hăy nghe ta hát ở nơi non ngàn!

 

DỊCH NGHĨA:

 

Côn Sơn có suối, tiếng nước chảy ŕ rào lặng lẽ, ta xem đó là tiếng đàn cầm – Côn Sơn có đá, nước mưa rửa sạch rêu bày ra đá màu biếc như ngọc, ta lấy đó làm chiếu để ngồi – Trong núi có thông, muôn dặm màu xanh biếc sạch trong, ta tha hồ ngơi nghỉ bên trong – Trong rừng có trúc, ngàn mẫu in dấu màu xanh lục đậm; Ta tha hồ ngâm ngợi, ḥ hát bên gốc cây trúc - Hỏi anh sao chẳng quay trở về đi? Nửa đời đất bụi kéo dài và trói buộc bám riết! – Muôn chung, chín đỉnh lớn nào cần làm chi; uống nước suông, cơm rau tùy vào hoàn cảnh là đủ rồi – Anh có thấy chăng: Đổng Trác vàng đầy như mộtđống đất lớn; Nguyên Tải hồ tiêu cất tám trăm hộc - Lại thấy không: Bá Di cùng Thúc Tề, đất Thủ Dương chết đói, không ăn gạo!? - Hiền, ngu hai kẻ không như nhau, đều thỏa ḷng ham muốn của ḿnh – Con người sống trong ṿng trăm tuổi, rốt cuộc cũng giống như cây như cỏ thôi ! – Vui, buồn, lo, sướng lần lượt đổi thay nhau đến và đi; vẻ vang, tàn lụi tiếp nối nhau – G̣ núi hoặc nhà đẹp theo nhau cũng t́nh cờ, bất chợt thôi - Mai sau chết đi rồI, nào ai là vinh và nào ai là nhục – Cơi người nếu có loại người như Sào, Do, hăy khuyên họ nghe ta hát khúc ca trong núi non.

 

CHÚ THÍCH:

 

-     Côn Sơn: tên một ngọn núi lớn ở Trung Hoa. C̣n ở nước ta, tiền nhân cũng đặt tên một ngọn núi ở huyện Chí Linh (Hải Dương) là Côn Sơn. Đời Trần, thiền sư Trúc Lâm dựng am ở núi này, Huyền Quang tôn giả (tức Lư Đạo Tái từ quan đi tu) trụ tŕ chùa Ân Tứ ở đây. Ông ngoại Nguyễn Trăi là quan tư đồ Trần Nguyên Đán thường ở đây thưởng hoa, vịnh nguyệt.

-     冷冷 lănh lănh: chảy ŕ rào lặng lẽ.

-     琴弦 cầm huyền: dây của cây đàn cầm (gồm 5 dây, do vua Thuấn làm ra (theo Kinh Lỗ). Về sau gọi chung các loại đàn là “cầm”.

-     雨洗苔vũ tẩy đài phô bích: mưa rửa sạch rêu bày lộ đá màu biếc như ngọc.

-     簟席 điệm tịch: chiếu làm bằng cói dùng để nằm, ngồi.

-     童童 đồng đồng: che giấu, mờ mờ, dáng vẻ sạch sẽ.

-     偃息 yển tức: dừng lại nghỉ ngơi.

-     印寒ấn hàn lục: dấu vết âm u xanh mát lạnh.

-     ngâm khiếu: ngâm ngợi và ḥ hát.

-     giao cốc: bám đeo và trói buộc.

-     phạn sơ: ăn loại rau cỏ có thể ăn được.

-     董卓 Đổng Trác: Thừa tướng đời Đông Hán. Trước đó đương thức Tiền tướng quân đời Hán Linh Đế. Khi Linh Đế mất, chức phế Thiếu đế và chuyên quyền. Sau bị Lữ Bố lập mưu giết chết.

-     萬鐘 vạn chung: chung là đơn vị đo lường ngày xưa (1 chung = 6 hộc + 4 đấu); vạn chung: chỉ sự giàu có tột đỉnh; chung: nghĩa khác là chuông.

-     ổ: lũy nhỏ. Đổng Trác đời Đông Hán làm một thành nhỏ đặt tên là Mi Ổ. Có lẽ chữ “ổ” này chỉ về thành lũy chứa đồ sang quư của Đổng Trác.

-     Nguyên Tải: đời Đường Đại Tông giữ chức Trung Thư Thị Lang, chuyên quyền lo tích lũy của cải và rất giàu có nhờ ḅn rút khi làm quan. Về sau bị vua buộc tội chết.

-     伯夷,Bá Di, Thúc Tề: con vua Cô Trúc đời Thương. Khi Chu Vơ Vương diệt nhà Thương, hai anh em bỏ vào núi Thủ Dương ăn rau cỏ mà chết đói, quyết không ăn thóc nhà Chu.

-     hoa ốc: nhà lộng lẫy, cao sang, giàu có.

-     巢,由 Sào, Do: hai bậc cao sĩ đời vua Nghiêu quyết không để danh lợi, quyền chức lôi cuốn nên một đời ở ẩn trên núi dù bao lần được vua cho mời về kế vị.

-     不相侔 bất tương mâu: không ngang nhau, không bằng.

-     các: đều giống

-     điệt: đổi thay dần, lần lượt thay đổi và mất mát

-     hoàn tương tục: nối theo nhau quay ṿng

-     若有 nhược hữu: nếu có

-     đồ: đi theo, hạng lũ, học  tṛ, phe đảng, đi bộ, những chỉ

-     山中曲 sơn trung khúc: khúc hát trong non ngàn

 


 


 

Bài 79 :

 

GIANG HÀNH

江 行

 

Tây tân sơ nghị trạo.                                      西津初

Phong cảnh tiện giang hồ.                              景便江湖

Vũ quá sơn dung sấu,                                   山容瘦

Thiên trường nhạn ảnh cô.                             雁影孤

Thương Lang hà xứ thị,                                 浪何

Ngư điếu hảo vi đồ,                                       魚釣

Hồi thư Đông Hoa địa,                                   回首東華

Trần ai giác dĩ vô.                                           塵埃覺

 

DỊCH THƠ:

 

Thuyền đi trên sông

 

Quay thuyền chèo ghé bờ tây,

Sông hồ cảnh đẹp bày ngay kia là.

Hao gầy dáng núi mưa qua,

Miệt mài bóng nhạn trời xa lẻ bầy.

Thương lang ở chốn nào đây?!

Ngư chài làm bạn cũng hay thôi nào.

Đông Hoa ngoảnh lại đất nao.

Thấy như vắng bặt c̣n đâu bụi đời!

 

DỊCH NGHĨA:

 

Vừa mới quay chèo ghé bến thuyền phía tây – Sông hồ cảnh đẹp bày ra ngay liền – Cơn mưa đi qua, dáng núi gầy hao - Bầu trời rộng lớn, bóng nhạn lẻ loi – Thương Lang ở chốn nào đây? – Làm bạn với kẻ chài cũng tốt – Quay đầu nh́n lại đất Đông Hoa - Thấy bụi đời đă không c̣n.

 

CHÚ THÍCH:

 

-          nghị: quay thuyền lại.

-          便 tiện: liền ngay đó, yên ổn, tức thời

-          sấu: gầy ốm, xấu xí

-          thiên trường: bầu trời xa rộng lớn.

-          Thương Lang nằm ở hạ lưu Hán Giang được Khuất Nguyên đề cập trong Sở Từ. Về sau được dùng chỉ nơi ở ẩn, xa lánh cơi đời (“Ngư phủ” cũng là một bài ca trong Sở Từ liên hệ ư “ngư điếu”)

-          đồ: người cùng phe nhóm, bạn bè, tay trắng, tội đồ, không c̣n

-          東華Đông Hoa địa: vùng đất đô hội ở kinh đô. Cũng chỉ cửa vào hoàng cung.

giác dĩ vô: thấy được sự vắng lặng. Vô: không c̣n ǵ cả; chữ vô trong đạo Phật không phải là sự trống rỗng hoặc không có. Đó là sự an lạc, tĩnh lặng chỉ có thể đạt được bằng sự giác ngộ của người thấu triệt được lẽ đạo.

 

 

 

 

 



D
ương Anh Sơn
 Giáo Sư Triết học

 Trung học Ninh Ḥa

 

 

 

trang thơ & truyện Dương Anh Sơn              |                 www.ninh-hoa.com