Ảnh Hưởng Đạo PHẬT
Trong
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Dương
Anh
Sơn
|
PHẦN
MỘT
VỀ NGUYỄN DU
CHƯƠNG I
NGUYỄN DU VÀ TÁC PHẨM
Đáng
lẽ nhan đề chương này phải đặt một cách rơ nghĩa là “Tiểu sử
về Nguyễn Du”, nhưng con đường cũ giờ đây đă mờ dấu, có chăng
vài vết tích lạc lơng không đủ để xác nhận h́nh bóng người
xưa. Căn cứ vào huyền thoại, vào các sử liệu đáng tin cẩy… để
vẽ lại cuộc đời một thi sĩ cũng chỉ là những công tŕnh và
những cố gắng dựng lại một chân dung đă phôi pha quá nhiều.
Thành thử, chúng ta chỉ nói về, bàn về hành trạng và thân thế
Nguyễn Du trong chiều hướng t́m lại ít nhiều cuộc đời tiên
sinh đă ảnh hưởng và phô diễn trong những tác phẩm để lại.
Cạnh đó, công việc t́m hiểu này sẽ nhắm đến chân trời tư tưởng
của Tố Như, trong đó cuộc đời và đạo Phật có những tương quan
như thế nào, liên hệ ra sao? Nguyễn Du tiên sinh đă chịu ảnh
hưởng đạo Phật hay là đạo Phật đă là một nguồn sống đối với
thi sĩ? Các câu trả lời sẽ được xác minh ngay trên những tác
phẩm của tiên sinh được lưu truyền cho đến ngày nay qua hai
mục:
-
Điểm thứ
nhất: Những t́m hiểu thân thế và hành trạng Nguyễn Du.
- Điểm
thứ hai: Sẽ bàn về ảnh hưởng đạo Phật qua các tác phẩm chữ Hán
và chữ Nôm của Tố Như.
MỤC
1:
THÂN THẾ VÀ HÀNH TRẠNG
TIẾT 1: THÂN THẾ
Tác giả Đoạn
Trường Tân Thanh húy là Nguyễn Du (阮攸),
tự là Tố Như Tử (素如子),
hiệu là Thanh Hiên (清軒),
lại có biệt hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ (鴻山獵户)
và Nam Hải Điếu Đồ (南海釣徒).
Tiên sinh quán làng Tiên Điền, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm Ất Dậu
(1765), niên hiệu Lê Cảnh Hưng thứ 26.
Thân mẫu tiên sinh
là bà Trần Thị Tần, người huyện Đông Ngạn, trấn Kinh Bắc. Thân
phụ là cụ Nguyễn Nghiễm (阮儼)
đậu Hoàng giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ, tước là
Xuân quận công. Anh cả của tiên sinh là Nguyễn Khản (阮侃),
đồng tiến sĩ xuất thân, làm Lại bộ thượng thư, sung chức tham
tụng ở triều đ́nh với thân phụ. Anh thứ là Nguyễn Điều (阮條),
đậu Hương cống, sung chức Trấn thủ Sơn Tây, tước Điền nhạc
hầu, thuộc đời Lê Cảnh Hưng. Ngoài ra, các anh em khác và họ
hàng đều là những người có khoa hoạn nức tiếng khắp nơi, đến
nỗi có câu ca dao miền Nghệ Tĩnh: “Bao giờ ngàn Hống hết cây,
sông Rum hết nước, họ này hết quan”.
Nguyễn Du mồ côi cha năm
10 tuổi (1775) và ba năm sau mất bà thân (1778). Tiên sinh về
ở với Nguyễn Khản và có lẽ đă thụ giáo trực tiếp với người anh
này.
Một số tài liệu gần đây
cho biết, sau khi thôi học với các anh trong nhà. Nguyễn Du
tiên sinh lại tiếp tục với cụ Nguyễn Hành, quán xă Nguyệt Ao,
tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Tiến sĩ khoa
Giáp Dần (1734) đời vua Lê Thuần Tông năm thứ 3, sau cụ Nguyễn
Nghiễm một khoa. Cụ Nguyễn Hành từng làm quan đến chức Án Sát
tỉnh Thái Nguyên, sau cụ cáo quan về quê mở trường dạy học,
đào luyện được nhiều nhân tài. Hai học tṛ nổi tiếng của cụ là
Nguyễn Thiếp tự Hạnh An, hiệu La Sơn Phu Tử và Nguyễn Du tiên
sinh.
Tiên sinh được học từ
6 tuổi, thiên tư vốn thông minh lại ham xem sách, không những
đọc sách Nho mà các sách Phật, Lăo, binh thư cũng để tâm đến.
Ngoài tài học rộng văn hay, chữ tốt, tiên sinh cũng theo đuổi
các môn như cầm, kỳ, thi, họa, cũng như am tường vơ nghệ quyền
thao nữa. Theo truyền thuyết, b́nh sinh tánh t́nh cụ điềm đạm,
chuộng sự yên tĩnh, thích tư lự hơn là nói năng. Nguyễn Du
được 19 tuổi, đi thi Hương, khoa Quí Măo (1783), niên hiệu
Cảnh Hưng thứ 44, đậu Tam trường (khoa Giáp Th́n, trường Sơn
Nam) và chứng kiến gia đ́nh ly tán mỗi người một ngả khi loạn
kiêu binh nổi lên ở kinh đô, lấy danh nghĩa phế con trưởng
Trịnh Sâm là Trịnh Khải, v́ Trịnh Sâm mất đă lập di chúc bỏ
con trưởng, lập con thứ là Trịnh Cán, con của Tuyên phi Đặng
Thị Huệ. Đồng thời bấy giờ tướng quân Tây Sơn khởi đánh Phú
Xuân. Đến năm 1786, Tây Sơn đă chiếm được phần đất của chúa
Nguyễn rồi kéo thẳng ra Bắc Hà. Trịnh Khải không cậy vào quân
Tam Phủ được nên chạy trốn, rồi bị bắt nộp cho quân Tây Sơn.
Trong những giai đoạn biến động này, cửa nhà của Nguyễn Khản,
anh Nguyễn Du đều bị tan nát. Năm 1789, quân Tây Sơn do Nguyễn
Huệ thống lănh lại tiến ra Bắc Hà lần nữa đại phá quân Thanh,
b́nh định lại vùng đất cựu trào này. Nguyễn Du lui về quê vợ,
nương thân ở xă Quỳnh Côi, huyện Hải An, Thái B́nh và ở đó
khoảng 10 năm sống đời ẩn dật tại núi Hồng Lĩnh, vui thú săn
bắn, thả câu. Danh xưng Hồng Sơn Liệp Hộ (kẻ săn bắn núi Hồng)
và Nam Hải Điếu Đồ (kẻ chài ở miền Nam) có từ lúc này. Và đây
cũng là thời kỳ được xem như biến chuyển nhất trong việc h́nh
thành tư tưởng của ông thể hiện qua các thi ca để lại. Trước
đó, theo truyền thuyết, Nguyễn Du cũng đă bôn ba mưu việc khôi
phục nhà Lê, nhưng việc không thành, mặc dầu lúc ấy anh thứ là
Nguyễn Nễ đă cùng một số cựu thần nhà Lê chịu ra làm quan với
Tây Sơn. Ông cũng đă có lần mưu tính vào Gia Định để giúp
Nguyễn Ánh nhưng việc bại lộ, tướng Tây Sơn trấn thủ Nghệ An
là Nguyễn Thận đă bắt giam ông tại Nghệ An ngót ba tháng trời.
Về sau, phần v́ mến tài, phần có chỗ giao t́nh với Nguyễn Nễ
nên đă tha ra (1796).
Nhưng rồi thế cuộc thêm
một lần đổi thay nữa, khoảng năm 1800, Nguyễn Ánh nhân cái
chết của Quang Trung Nguyễn Huệ và nội bộ lủng củng của triều
Tây Sơn, đă dần dần tiến chiếm B́nh Định ra tới Phú Xuân, rồi
lấy Bắc Hà xong vào tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802). Nguyễn Ánh
lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và xuống chiếu trưng triệu những
cựu thần nhà Lê, trong đó có Nguyễn Du. Sau nhiều lần từ chối
không được, bất đắc dĩ ông phải ra làm quan với nhà Nguyễn để
khỏi bị phiền lụy. Tháng 8 năm Gia Long nguyên niên, ông được
bổ làm tri huyện Phù Dung, thuộc trấn Sơn Nam, qua đến tháng
11 th́ thăng tri phủ Thường Tín. Năm Giáp Tỵ (1804), Nguyễn Du
tiên sinh được cử lên ải Nam Quan để nghênh tiếp sứ nhà Thanh
sang sắc phong cho Gia Long. Xong việc, ông cáo bệnh về quê
nhà, nhưng chỉ được hơn một tháng trời th́ có chỉ triệu về
kinh. Sau đó, ông được thăng chức Tham Tri, hàm Đông Các học
sĩ và được phong tước Du đức hầu.
Đến năm Kỷ Tỵ (1809),
ông được bổ giữ chức cai bạ ở Quảng B́nh, nổi tiếng là chính
sách giản dị được sĩ dân yêu mến. Niên hiệu Gia Long thứ 12
(1813), ông lại xin nghỉ về quê (tháng 9), rồi đến tháng chạp
lại bị triệu dụng về kinh thăng Cần chánh điện học sĩ và được
cử làm chánh sứ sang triều Thanh tuế cống. Mất ngót hơn 13
tháng, từ tháng 2 năm Quư Dậu (1813) đến tháng 4 năm Giáp Tuất
(1814), ông mới trở về nước. Trên đường đi sứ sang Trung Quốc,
ông đă có dịp chứng kiến nhiều điều mới mẻ, cũng như là nhiều
cơ hội để tư tưởng của ông được bồi dưỡng và thực chứng những
thắc mắc lo nghĩ trong tâm từ bao lâu nay.
Sau khi được nghỉ 6
tháng ở quê, năm sau ông được thăng chức Lại bộ hữu tham tri.
Qua đến năm Minh Mạng nguyên niên (1820), lại được cử làm
chánh sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng chưa kịp lên đường
th́ bị bệnh mất ở kinh vào ngày mồng 10 tháng 8 Canh Th́n
(1820), thọ 56 tuổi.
TIẾT 2: HÀNH TRẠNG
Bên cạnh những nét chính
yếu về cuộc đời của Nguyễn Du ở trên, chúng ta sẽ đề cập đến
một vài sự kiện. Vài giai thoại có liên quan ít nhiều trong
việc phác họa và t́m lại chân dung tiên sinh; đồng thời qua đó
t́m hiểu sự h́nh thành tư tưởng của ông.
Thực vậy, tư tưởng của
Tố Như tiên sinh, nói một cách chung đă được h́nh thành một
phần do sự thực chứng của tiên sinh nơi ḍng đời biến chuyển.
Ngay từ khi bước vào đời qua con đường loạn ly, tiên sinh đă
được chứng kiến và tham dự trong bao cảnh đổi thay liên tiếp
gây ra bởi sự tranh giành quyền lợi, tranh ngôi đổi chủ xảy ra
khắp nơi. Cả một gia đ́nh tiên sinh êm ấm bỗng chốc ly tán v́
sự nổi loạn của quân Tam Phủ. Cạnh đó, nạn kiêu binh cũng khởi
đầu cho cảnh loạn lạc, phá vỡ trật tự nơi chốn triều nghi và
bao nhiêu nỗi đau thương khác nữa cho dân chúng. Tiếp đến, khi
quân Tây Sơn ra Bắc Hà dứt nhà Trịnh, vua Lê cũng gây nên bao
cảnh thương tàn, xâu xé nơi nơi. Có thể nói rằng chưa bao giờ
trong lịch sử đất nước đă xảy ra cảnh binh đao, chinh chiến và
tranh chấp quyền lợi một cách hỗn tạp như lúc này.
Trước cảnh tượng đau
ḷng như thế, nhà thơ đă nảy sinh mối thương tâm cảm khái
không thôi. Để rồi trong giai đoạn lưu lạc, lui về quê nhà t́m
vui nơi săn bắn, ngao du sơn thủy, tiên sinh đă thức ngộ phần
nào trước những câu hỏi đặt ra từ cuộc đời và bức tranh vân
cẩu tang thương đó. Đây là giai đoạn có thể xem là quan trọng
trong việc h́nh thành tư tưởng của tiên sinh, những văn thơ để
lại đă xác định hành trạng của tiên sinh trong những lúc ẩn
dật này (Kư Hữu, U Cư Mạn Hứng, Sơn Cư, Tự Thán, Ngọa bệnh,
Sơn Thôn … trong “Thanh Hiên Thi Tập”). Hầu như tiên sinh luôn
mang tâm trạng bi quan, băn khoăn giữa hai quan niệm “dấn
thân” vào chốn quan trường và “thân ngoại vật”.
Ná đắc
khiêu ly phù thế ngoại,
Trường
tùng thụ hạ tối nghi nhân
(Sơn thôn)
那 得 跳 離 浮 世 外
長 松 樹 下 最 宜 人
(山村)
(Nhiều khi muốn rời bỏ
đường trần tục
Dưới cội tùng làm người
hóng mát th́ phù hợp hơn)
Tạm chuyển lục bát:
Mong sao thoát khỏi lụy trần,
Gốc
tùng ngồi mát vô cùng sướng vui.
Hoặc:
“Hà năng
lạc phát quy lâm khứ,
Ngọa
thính tùng phong hưởng bán vân.”
(Tự thán)
何 能
落 髮
歸
林 去
臥 聼 松
風 響
半 雲
(自嘆
二)
(Nếu có thể gọt tóc vào
rừng,
Nằm nghe gió thổi tùng
reo lưng chừng mây)
Tạm chuyển lục bát:
Những mong gọt tóc vào
rừng,
Nằm nghe thông lộng nửa
chừng trời mây.
“… Phù
lợi vinh danh chung nhất tán,
Hà như cập tảo học thần tiên”
(Mộ Xuân Mạn Hứng)
浮 利 榮 名 終 一 散
何 如 及 早 學 神 仙
(幕春漫興)
Tạm chuyển lục bát:
Rốt cùng
danh lợi cũng tan,
Sao bằng
sớm học đạo thần tiên kia.
Danh lợi phù du rốt cùng
cũng tan tành, sao bằng kịp thời học đạo thần tiên. Và có lẽ
trước sự giằng co như thế, trong những năm tháng ở núi Hồng
sông Lam, tiên sinh đă có dịp t́m câu trả lời và chọn cho ḿnh
một con đường để tiến bước, không những cho thời kỳ ẩn dật ở
đây mà cả mai hậu nữa. Phải chăng đó là hàm ư mà tiên sinh đă
hướng đến trong Đoạn Trường Tân Thanh.
“Từ rày khép cửa pḥng thu
(c.3107)
Chẳng tu, th́ cũng như tu mới là”.
Một số tài liệu gần đây
cũng cho thấy tâm trạng của tiên sinh ở giai đoạn này xuyên
qua các câu đối để ở thảo xá dựng ở rừng sâu.
“Vong
bần cánh hảo yên bần hảo,
Đại ẩn
lương nan tiểu ẩn nan”
忘 貧 更 好 安 貧 好
大 隱 良
難 小 隱 難
Nghĩa là: Quên cái nghèo
là tốt, vui cái nghèo cũng tốt.
Làm người đại ẩn rất khó,
mà làm người tiểu ẩn cũng khó.
và:
“Thử giang sơn vạn đại
trường tồn, nhựt lâm nguyệt chiếu.
Dữ thảo thụ quần sinh
cộng lạc, đông khứ xuân lai”.
此 江 山 萬 代 長 存,日 臨 月 照
與 草 樹 群 生 共 樂,東 去 春 來
Nghĩa là:
Giữa non sông muôn thuở
vững bền, nhựt nguyệt đôi ḍng soi dọi.
Cùng cây cỏ muôn loài
vui sống, đông xuân mấy độ đổi thay.
Nhưng giang sơn bấy giờ
thay ngôi đổi chủ, ch́m đắm trong tao loạn; ư nguyện của tiên
sinh rốt cùng chỉ là những ước vọng và là giấc mơ của một cơi
miền nào đó mà thôi. Dù sao chăng nữa, qua các bài thơ làm khi
ở dăy núi Hồng sông Lam này và trong những bước ngao du đây
đó, cũng cho thấy phần nào phong thái của tiên sinh. Nó đánh
dấu thời kỳ tư tưởng tiên sinh đang có một sự chuyển hướng
quan trọng và đầy rẫy những âm hưởng của đạo thiền; trong đó
có con người nghệ sĩ Tố Như đă có dịp gần gũi với thiên nhiên,
với vạn vật, truy nhận cái tâm và lắng ḿnh trong niềm vui
thanh thoát của lẽ đạo (Kư Hữu, Đạo Ư, Ngọa Bệnh, Tạp Ngâm,
Tạp Thi, Ngẫu Hứng…).
Thế rồi, những tháng
ngày xuân “nghêu ngao vui thú yên hà” cùng với “mai là bạn cũ
hạc là người quen”
cũng qua đi, “phường săn ở núi Hồng” và “kẻ chài ở biển Nam”
đành phải gác bỏ cuộc đời ẩn dật dù chịu nhiều khổ cực, nghèo
túng và bệnh hoạn liên miên nhưng phóng khoáng tự do để ra làm
quan nhà Nguyễn. Cuộc sống quan trường của tiên sinh tuy hanh
thông, được sĩ dân yêu mến, vua trọng dụng, nhưng có những chỗ
khe khắt hiềm tị khiến ông thường buồn rầu, ít nói, ít tham dự
vào bàn bạc quốc sự. Mặt khác, có lẽ một phần do tính điềm
đạm, thích trầm tư mặc tưởng, không thích khoe khoang, chuộng
đời sống giản dị nên tiên sinh khó ḥa ḿnh vào chỗ ồn ào náo
nhiệt của đời sống quan cách được. Ngoài 30 tuổi, đầu tóc của
tiên sinh do việc lo nghĩ luôn nên đă bạc (Tự thán, Mạn hứng),
lại hay t́m đọc sách chẳng những của Nho, mà c̣n của Lăo, Phật
nữa. Tánh t́nh của tiên sinh một phần nào đó có lẽ do sự thấm
nhuần triết lư của các loại sách này. Một bộ Kinh Kim Cương
của nhà Phật, tiên sinh cũng đọc hơn cả ngàn lần (Lương Chiêu
Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài) đă cho thấy sự am tường hiểu
đạo của tiên sinh dù trên phương diện tri thức. Do đó, bên
cạnh công việc của một người ra làm quan th́ sách vở là bạn
hữu thân thiết nhất của tiên sinh mà thôi.
Tương truyền trong thơ
pḥng, tiên sinh đă đề một câu đối được nhiều người biết đến
sau đây:
“Nhất chức bất hiềm ti,
chỉ vị mễ ngũ đấu chiết yêu, dụy dụy tiến, nặc nặc thối.
Bán sinh không hạo
tưởng, yêu đắc hạ vạn gian tí sĩ, lạc lạc hậu, ưu ưu tiên.
一職不嫌卑,只為米五斗折腰,唯唯進,諾諾退。
半生空浩想,要得厦萬間庇士,樂樂後,憂憂先
Xin tạm lược dịch:
Một quan chức chẳng nề
chức nhỏ nhen, chỉ v́ năm đấu gạo phải uốn cong tấm lưng, dạ
dạ lên, vâng vâng xuống.
Nửa đời người không
tưởng việc to tát, sao được vạn gian nhà để chở che kẻ sĩ, lo
lo trước, vui vui sau.
Phải chăng tâm trạng của
tiên sinh trong thời kỳ này cũng chất chứa nhiều lo nghĩ, việc
to lớn của tiên sinh thường băn khoăn là làm thế nào để cho kẻ
sĩ luôn luôn được yên tâm, không lo lắng trước công danh, cơm
áo hầu giữ được tiết tháo của người quân tử. Cái lo của kẻ
thức thời sĩ khí phải đi trước cái lo của kẻ khác và chỉ hưởng
niềm vui sau khi đă hoàn thành chức trách của ḿnh vậy. Qua
đó, chúng ta cũng nhận ra được phần nào quan niệm xử thế của
tiên sinh khi ra làm việc cai trị. Câu phê b́nh “chính sự giản
dị sĩ dân yêu mến” không phải là câu nói bỗng dưng mà tiên
sinh được ban tặng vậy.
Ngoài ra, sống trong
chốn quan trường, tiên sinh đă thấu hiểu sự mất mát của thời
“nghêu ngao” và c̣n giữ được tiết khí của ḿnh:
“Thái phác bất toàn chân diện mục (Kư Hữu)
太 璞 不 全 真 面 目
(寄友)
Và nếu “Viên ngọc phác
không giữ được gương mặt đích thực của ḿnh” th́ cảnh vật bên
ngoài vẫn tịch tĩnh như từ thuở nào. Cảnh vật thay đổi hay
ḷng người thay đổi.
“Nhân tự tiêu điều xuân
tự hảo
(Xuân tiêu
lữ thứ) 1
人 自 蕭 條 春 自 好
(春宵旅次)
“Niên niên
thu sắc hồn như hử
Nhân
tại tha hương bất tự tri
(Giang đầu tản bộ, Bài 1)
年
年
秋 色 渾 如 許
人 在 他 鄉 不 自 知
(江頭散步)
“Người riêng buồn bă,
riêng xuân vẫn tốt tươi”
“Năm đi năm lại sắc thu
vẫn hồn nhiên như thưở nào, người nơi đất khách không tự biết
mà thôi.”
Tạm chuyển lục bát:
Sắc thu
vẫn thế mỗi năm
Quê
người khách có biết chăng nỗi ḿnh.
Tuy nhiên những băn
khoăn lo nghĩ của tiên sinh trong các giai đoạn trên chỉ là
mối ưu tư của bậc thức giả mà thôi. Phải đợi đến khi chịu mệnh
đi sứ tuế cống bên Tàu th́ những điều đó mới kiểm chứng một
cách xác thực. Đồng thời, đây mới là cơ hội giúp cho tư tưởng
của tiên sinh khai mở và thức ngộ sau bao năm tháng đầy rẫy
mối tư lự giữa sự ngổn ngang của sách vở cũng như bao cảnh
tượng khổ đau mà tiên sinh từng tham dự chứng kiến.
Trên đường đi sứ ghé
Thăng Long, tâm sự của tiên sinh đă nảy sinh ra bao nỗi niềm
cảm khái không nguôi. Chính nơi đây, trong thời kỳ thanh niên,
tiên sinh đă từng thấy bao cảnh tượng phế hưng, thay chủ đổi
ngôi cùng với bao cảnh tượng đau ḷng đă vang vọng vào tâm trí
như chứng tích của cuộc đời không thể tẩy xóa được. Bây giờ
trở lại chốn xưa, thời gian thấm thoát đă hai mươi năm rồi.
Cảnh vật người cũ nay đă phôi pha và nhuốm biết bao nhiêu sự
đổi thay (Thăng Long). Nhưng mối xúc động sâu xa nhất đối với
tiên sinh trên đường đi sứ ngang qua thành Thăng Long là việc
gặp lại một ca nhi trong đám tiệc của quan Tuyên phủ sứ khoản
đăi. Đó là nàng “Con gái đất Long Thành”, giỏi đàn hát mà ông
đă có dịp trông thấy cách hai mươi năm trước, giờ đây vẫn là
người cũ nhưng nhan sắc tiều tụy, hao gầy. Và ở giữa đó, tiên
sinh đă h́nh dung lại một thời dĩ văng vàng son nay đă tàn
phai, đă mất mát như những nét vô thường của cuộc đời. Biết
rằng cuộc đời vô thường, nhưng những ǵ mất mát phôi pha cũng
gây cho tiên sinh bao niềm bồi hồi xúc cảm không thôi.
“Thế sự
phù trầm hưu thán tức
Tự gia
đầu bạch diệc tinh tinh.
(Thăng Long, II)
世 事 浮 沉 休 嘆 息
自 家 頭 白 亦 星 星
(昇龍
二)
Tạm chuyển lục bát:
Chớ than
ch́m nổi chuyện đời,
Tóc ḿnh đốm bạc kia rồi lơ thơ. (Thăng Long II)
“Ngồi im lặng ở cuối bàn
tiệc, không nói cũng không cười, trông t́nh trạng thật bất
nhẫn, không c̣n nhận ra là ai nữa, duy nghe trong tiếng đàn
tựa như đă từng quen biết. Trong ḷng cảm thấy đau xót. Tiệc
tan bèn hỏi người nhạc công. Th́ ra là nàng đó. Than ôi! Người
này sao đă đến nỗi thế ư! Bồi hồi quanh quẩn, hết cúi lại
ngẩng, than thở măi không thôi, không sao hết được nỗi cảm xúc
của ngày hôm đó. Con người ta sống trăm năm, những nỗi vinh
nhục buồn vui. Ai có thể lường trước được chăng? Sau khi từ
biệt trên đường càng nghĩ, mối cảm xúc càng sâu. Nhân đấy làm
bài ca này để gửi nỗi ḷng cảm hứng”.
(Long Thành Cầm Giả Ca –
Tiểu dẫn trong Bắc Hành Tạp Lục).
Phải chăng đó cũng là
mối cảm hoài trước thân thế nàng Kiều của Phong T́nh Cổ Lục đă
gây cảm hứng nơi tiên sinh để sáng tác Đoạn Trường Tân Thanh?
Khi đến Lạng Sơn, đứng trước cảnh vật đổi thay, bao nhiêu câu
hỏi đặt ra từ những sách đạo Phật đă đọc, khiến tiên sinh thêm
lần nữa nảy ra bao mối thắc mắc, băn khoăn. Và càng ưu tư, lo
nghĩ về sự khác biệt giữa cuộc đời và sách vở, giữa thực và
mộng th́ nỗi thắc mắc ấy càng sâu xa hơn:
“Vạn
ban thủy thạch thiện đại xảo
Nhất
lạp càn khôn khai tiểu thiên
Măn
cảnh giai không hà hữu tướng
Thử
tâm thường định bất ly thiền”.
萬 般 水 石 擅 大 巧
一 粒 乾 坤 開 小 天
滿 境 皆 空 何 有 相
此 心 常 定 不 離 禪
Và:
“Đại sư
vô ư diệc vô tận
Phủ thán
thành trung đa biến thiên
(Đề Nhị Thanh Động)
大 師 無 意 亦 無 盡
俯 嘆 城 中 多 變 遷
(題二青洞)
Lược dịch:
Một hạt
càn khôn mở ra cơi trời nhỏ
Khắp
cảnh vật đều là không có h́nh tướng
Ḷng này
thường định không rời thiền
Và:
Và ông trời không cố ư
mà cũng không chấm dứt
Cúi than thở bên trong
thành biết bao sự đổi thay
Những trải nghiệm từ
biết bao sự biến dời trong cuộc đời đă h́nh thành một kinh
nghiệm sống. Và dưới sự soi chiếu từ đạo Phật, những kinh
nghiệm học hỏi từ sách vở, từ thiên nhiên và cuộc sống đă cho
tiên sinh một cách nh́n vững chải: đó là lấy sự thiền định làm
nơi an trú cho cơi ḷng của ḿnh. Những mất mát hay bao nỗi
tang thương tiên sinh đă chứng kiến, đă trải qua sẽ ḥa cùng
lẽ đạo đang từ từ hé lộ trong tâm thức tiên sinh để đi đến sự
“thực chứng” nghĩa là thấy rơ không c̣n mơ hồ nữa về ư nghĩa
của kinh điển và cuộc đời.
Cuộc sứ tŕnh này đă đem
lại cho tiên sinh sự khai mở tâm thức sau bao nỗi băn khoăn,
khúc mắt. Đó cũng là cơ hội để tiên sinh đi sâu vào cơi ḷng
của chính ḿnh và chứng thực ư nghĩa của đời sống mà mỗi kinh
nghiệm đoạn trường, kinh nghiệm từng trải nơi cuộc đời trầm
luân phù thế, kinh nghiệm của những bước đi chiêm ngưỡng vết
tích các danh nhân, của sự lầm than nghèo khó nơi nhân gian,
đă là những bài học có một vị thế đặc biệt trong tâm thức tiên
sinh. Để rồi sau khi hoàn tất công việc ở Bắc Kinh trở về Nam
Kinh, tâm thức Tố Như mới thật sự mở rộng và chứng ngộ được
huyền nghĩa của đạo thiền khi đến dưới Phân Kinh Thạch Đài:
“Ta nghe Đức Thế Tôn
tại Linh Sơn, thuyết pháp cứu người hằng hà sa số, người có
ḷng muốn giải thoát, Linh Sơn cũng chỉ ở ḷng ta, đài gương
trong cũng chẳng có, cây bồ đề vốn cũng không. Ta đọc kinh Kim
Cương trên ngh́n lượt, áo nghĩa bên trong phần nhiều chưa được
rơ, kịp tới lúc đến dưới Phân Kinh Thạch Đài này, mới biết
kinh không chữ mới là chân kinh.
Và đây là biến cố lớn
lao đối với tiên sinh. Từ đây, trên đường đời, tiên sinh đă
thấu hiểu ư nghĩa của chữ Tâm mà trước kia vẫn c̣n trong sự
t́m kiếm: Đạo Phật vốn không, không chấp trước vào vật, sao
lại c̣n chia cắt phân kinh? Ư nghĩa linh diệu của kinh không ở
ngôn ngữ, chất liệu; Ai là kẻ sáng tác ra kinh Kim Cương và
Pháp Hoa? … (Lương Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài).
Những thắc mắc về cuộc đời khổ đau về đạo Phật khi c̣n ở Lạng
Sơn nay đă được giải quyết … Ḷng tiên sinh trên đường về nước
thanh thản hơn, người đă hết rầu rĩ “cảnh xuân vẫn tốt tươi”
như tự bao giờ.
Những năm kế tiếp (từ
1814-1820), cuộc đời của Tố Như ít được các sử liệu đề cập một
cách rơ ràng cũng như không có một chứng tích nào xác thực, để
có thể suy diễn về hành trạng của tiên sinh. Trong cuộc đời
làm quan, tiên sinh thường hay ốm đau, lương bổng chỉ đủ việc
thuốc than, cảnh nhà rất giản dị, thanh bần … Theo gia phả
Nguyễn Du đă chép: mặc dù làm đến chức Á khanh, ông vẫn giữ vẻ
thanh nhă, đơn giản như một người học tṛ nghèo. “Ông có ba
vợ. Bà cả sanh được một trai, bà kế cũng sanh được một trai.
Bà thiếp sanh 10 trai, 6 gái”. Xem thế cũng đủ biết gia đ́nh
của tiên sinh cũng đông đúc, khi ông làm quan ở kinh đô Phú
Xuân, th́ vợ con ông ngoài kia vẫn nghèo khổ.
Thập
khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
Nhất
thân ngọa bệnh đế thành đông
(Ngẫu
đề) 2
十 口 啼 饑 穔
嶺
北
一 身 臥 病 帝 城 東
(偶題)
Tạm
chuyển lục bát:
“...
Hoành Sơn mười miệng đói rần
Thành
vua nằm bệnh một thân nơi này.
(T́nh cờ
làm thơ)
Hoặc:
Cố hương cang
hạn cửu phương nông,
Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng
(Ngẫu hứng,
bài 4)
故 鄉 亢 旱 久 妨 農
十 口 孩 兒 菜 色 同
(偶興,四)
Tạm chuyển lục bát:
“… Quê nhà mùa mất, hạn lâu,
Trẻ mười đứa dáng sắc rau cùng nhà …
(Ngẫu
hứng 4)
Đến năm Minh Mạng nguyên
niên, lại được chiếu chỉ cử đi sứ cầu phong lần nữa, nhưng
chưa kịp khởi hành th́ tiên sinh ngọa bệnh mất. Theo Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, lúc đau nặng sắp mất, tiên sinh không
chịu uống thuốc. Lúc hấp hối, bảo người nhà sờ tay chân xem
lạnh chưa, người nhà thưa “đă lạnh rồi”. Tiên sinh nói “Được,
được” rồi tắt thở không trối một lời. Trên án thư bấy giờ đang
để bài thơ “Độc Tiểu Thanh Kư”
(讀小青記)
trong đó có hai câu thơ bất hủ:
Bất tri
tam bách dư niên hậu
Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như!
不 知 三 百 餘 年 後
天 下 何 人 泣 素 如
Tạm chuyển lục bát:
Ba trăm
năm nữa biết chăng
Người
đời ai khóc lệ hằng Tố Như.
Qua những ḍng sơ lược
về hành trạng của Tố Như tiên sinh, chúng ta nhận ra một vài
nét chính phác họa chân dung tiên sinh. Ngoài ra, trong một ư
tưởng nhằm soi rơ tư tưởng đạo Phật trong Đoạn Trường Tân
Thanh sau này, hành trạng ấy cho phép chúng ta thấy được phần
nào sự cấu thành tư tưởng của tiên sinh; trong đó, tư tưởng
đạo Phật đă được thăng hoa để trở thành đạo thiền cho phù hợp
với kích thước của người nghệ sĩ Nguyễn Du hơn. Nếu chân nhận
kỹ càng, chúng ta sẽ tưởng rằng đó là đặc chất của tư tưởng
Lăo Trang, nhưng ở cuộc đời của Tố Như qua phần hành trạng bên
trên, đă cho thấy tư tưởng cốt yếu của tiên sinh nằm trong tư
thế của thiền gia (Thử tâm thường định bất ly thiền). Và ảnh
hưởng của tâm thái thiền sẽ đánh dấu đây đó trong Đoạn Trường
Tân Thanh mà chúng ta đề cập sau này. Mặt khác, công tâm mà
nhận định đạo Thiền được coi là tinh hoa của đạo Phật ít nhiều
có điểm gần với đường lối Lăo Trang và phù hợp với phong thái
phóng khoáng của những thi gia, văn gia ở Đông phương ở Trung
Hoa, Cao Ly, Nhật, Việt Nam … cho nên nó dung ḥa được hai
quan niệm xuất thế của Nho đạo. Nếu xét kỹ càng các tác phẩm
của Tố Như, chúng ta sẽ nhận rơ ảnh hưởng đạo Phật, đặc biệt
là tư tưởng thiền trong con người Nguyễn Du, một người từng
băn khoăn bao lần giữa thân ngoại vật và sự dấn thân vào tục
lụy.
Đọc Kỳ 2
Dương Anh Sơn
Giáo Sư Triết học
Trung học Ninh Ḥa
|