|
NHỮNG
D̉NG KỶ
NIỆM
GS Tiến Sĩ
Tô
Đồng
Khoa trưởng
trường Đại Học Dược Khoa Sài
G̣n
1974-1975.
CHƯƠNG 8
Kỳ
12 :
Trường
Dược Sài
G̣n và Tôi
Từ
sau cuối
tháng tư
1975, giới
Dược
sĩ
tị
nạn
thường
có dịp
ôn lại
đôi
ba câu chuyện
về
trường
Dược
xưa.
Nhiều bài
rất hay và trung thực đă được đăng trong những số báo
của
các Hội
Dược
sĩ.
Câu chuyện thường được kể theo nhăn quan, sự hiểu biết và
kinh nghiệm của người viết, nhằm ghi lại kỷ niệm hay dữ kiện
của một thời đă qua. Tôi không có khả năng hoặc ư định phê
b́nh hay chỉ trích, về chính sách giáo dục hay nhân vật.
Nhưng nếu cho rằng lúc đó chương tŕnh học không thực tế,
quá chú trọng vào khoa học căn bản hơn về dược khoa thực
hành, th́ v́ vậy dược lực học đă được giảng dậy ngày càng
nhiều hơn trong các sửa đổi kế tiếp. Hay lối học c̣n nặng về
từ chương khoa cử, nhưng trường có thiết lập được các chứng
chỉ cao học thực dụng với bằng Tiến sĩ đệ tam cấp, và thi cử
bớt nặng nề dần v́ đă có nhiều hội đồng giám khảo khác nhau
cho cùng một kỳ thi. Hoặc giả nói chương tŕnh Pháp ít hay
nhiều hợp với xă hội ta hơn chương tŕnh Mỹ, hay bằng cấp Mỹ
có giá trị hơn hay kém bằng cấp Pháp, th́ sự so sánh đúng ra
chỉ là tương đối thôi. Và ai cũng thấy hay dở c̣n tùy thuộc
nhiều phần vào nơi cấp phát và con người. Tôi cũng không có
tham vọng viết về những quan điểm thời thượng và nhận xét
thực tế cho tương lai ngành Dược nước nhà, v́ vấn đề này tùy
thuộc thời thế và cảnh ngộ. Nhất là ở thời điểm này, nhân
tài Việt rải rác khắp nơi nhiều như lá mùa xuân. Nếu có nêu
lên được một vài điểm căn bản từ những dữ kiện cũ, hoặc cố
ghi lại đôi điều suy nghĩ chưa quên trong mười ba năm tôi
liên tục phục vụ tại trường Dược, th́ tính cách cần thiết đă
mất đi v́ năm tháng. Vậy tôi kể những ḍng sau đây làm chi?
Để đóng góp đôi chút kỷ niệm riêng tư cùng bè bạn xa gần cho
vui? Dù sao th́ vào lúc b́nh
tâm cũng
như
khi
đắc
ư, chúng ta chắc
không ai
phủ nhận có nhiều dược sĩ tốt nghiệp đă tạo
thành quả khích lệ cho giới chúng ta và không hiếm giáo sư
trẻ đă đem lại iềm hi vọng lớn lao cho thời buổi ấy.
Một chút riêng tư
Cuối năm 1958, tôi được sang Paris du học với
học bổng của Viện Trợ Kỹ Thuật Pháp. Tôi rời Sài G̣n vào
buổi tối. Có các bạn Vơ Huỳnh, Vơ Đạm, Bùi Đ́nh Nam, Trịnh
Đ́nh Thiện, Nguyễn Văn Thiệu... đi tiễn từ Đại Học Xá Chợ
Lớn. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi gập anh Nguyễn Phú
Lịch và gia đ́nh. Cụ kỹ sư Thọ, thân sinh anh Lịch, dặn ḍ
chúng tôi nếu ra đi có nhau th́ hăy sớm trở về cùng nhau.
Tôi chào từ biệt cô chú Khoa, chú thím Can, các em Nghiên,
Hằng, và bè bạn thân quen... rồi cùng bạn Lịch lên chiếc phi
cơ lóng lánh ánh bạc Super Constellation để sang Pháp du học.
Chuyến bay của hăng Air France đi mất 33 giờ mới tới Paris,
sau khi ghé qua Bangkok, Karachi, Téhéran, Ankara và Rome.
Con đường trải dài trước mặt, đến đâu hay đó, suy tính mà
làm chi? Mà thường cũng phải bốn năm ăn học tại thành phố
Ánh Sáng mới xong được luận án Tiến sĩ.
Khi giáo sư Trương Văn Chôm sang Paris thi
Thạc sĩ về Sinh Hóa vào cuối năm 1961, th́ thầy đỡ đầu của
tôi là giáo sư Jean Emile Courtois, làm chánh chủ khảo. Thời
đó, theo tôi hiểu th́ sau khi qua khảo hạch về tước vị và
công tŕnh nghiên cứu, thí sinh phải giảng hai bài học. Một
bài học về đề tài căn bản sau khi sửa soạn 4 tiếng đồng hồ.
Và một bài học về đề tài thời thượng khi sửa soạn 24 tiếng
đồng hồ có người giúp đỡ. Giáo sư Chôm nhờ tôi ở lại pḥng
thí nghiệm đêm hôm đó để kiếm tài liệu giùm ông, nhưng rồi
cũng không cần thiết. Nhân dịp này ông cho biết trường
Dược
đă
tách ra khỏi
trường
Y Dược
để
thành một
phân khoa
độc
lập,
và rất
mong tôi sớm
trở
về.
Tôi thật
ra cũng
đă
có quyết
định
sẽ
về
nước
vào năm
tới.
Sau khi tŕnh luận án Tiến sĩ về Sinh Hóa
ngày 18 tháng
5 năm
1962, tôi
sang Luân Đôn nghỉ xả hơi cùng với
một
anh bạn
Mỹ
khá
thân,
Charles Meyer, Ph. D. Biết tôi sắp về Sài
G̣n, anh tặng
tôi một
quyển
tự điển
danh-từ
hóa-học
Pháp Mỹ
làm kỷ
niệm.
Tôi rời
Paris từ
phi trường
Orly vào một
buổi
sáng tháng 7 năm
1962. Trời
trong xanh ngắt,
có mây trắng
trôi lờ
lững
và nắng
ấm
tuyệt
đẹp.
Nhiều
bạn
bè
đưa
tiễn,
có Nguyễn
Phú Lịch,
Phạm
Văn
Biểu,
Mai Văn
Đồng,
Vũ
Quang Kính, Vũ
Xuân Chi, Phạm
Ngũ
Tùng, Bạch
Lư Từ....
Phi cơ
phản
lực
Boeing 707 của
hăng Air France bay gần
20 tiếng
đồng
hồ
rồi
đáp
xuống
phi
đạo
Sài G̣n lúc giữa
trưa.
Trời
oi bức,
ẩm
thấp,
không có lấy
một
làn gió nhẹ.
Thủ
tục
quan thuế
lại
chậm
chạp
rườm
rà. May mà
được
các bạn
thân Nam, Thiện,
Thiệu...ra
phi cảng
chờ đón.
Sự
vui mừng
gặp
gỡ
làm tôi tạm
quên cái nóng và nắng
ngày hè,
để
tṛ chuyện
đủ
thứ.
Tôi trở
về
nước
để
lập
gia
đ́nh,
và cũng
v́ muốn
đóng
góp ít nhiều
vào ngành Giáo Dục
Đại
Học
c̣n phôi thai của
Việt
Nam.
Tôi nhận
làm Giảng
Sư môn Hóa Vô Cơ cho năm thứ nhất trường Đại Học
Dược Khoa.
Đa
số
sinh viên học
thành tài hay chuyên viên sau khi tu nghiệp
như
tôi, ai mà không muốn
về
phục
vụ
cho quê hương!
Nhưng
nhiều
khi lần
lữa
măi chẳng
quyết
định
được.
Như
trường
hợp
anh bạn
Nguyễn
B́nh Thành, con ông Chánh Án Lâm,
ở
trước
cửa
buồng
tôi trong nhà
Đông
Dương
của
Thành Phố
Đại
Học
Paris. Anh tốt
nghiệp
Cao
Đẳng
Viễn
Thông và
đă
bán hết
đồ đạc
để
về
nước.
Thế
mà mấy
tháng sau anh mua lại,
để
cuối
cùng không rời
khỏi
nước
Pháp. Trường
hợp
anh kỹ
sư
Cường
th́
đi
về
đến
nửa
đường
lại
lấy
máy bay bay trở
lại,
có lẽ
v́ cô vợ
đầm
chỉ
muốn
sống
bên mẫu
quốc?
Riêng anh Nguyễn
Phú Lịch,
người
bạn
đồng
hành thân thiết
của
tôi,
ở
lại
lập
nghiệp
bên trời
Tây, có thể
nhiều
phần
tại
gia
đ́nh.
Nhưng chính v́ vậy mà giáo sư Lịch đă giúp
được bao nhiêu dược sĩ Việt Nam tị nạn trở
lại
nghề
cũ.
Trường Dược thời đệ nhất cộng ḥa
Trường
Y Dược
trước
kia
ở
số
28 Trần
Quư Cáp. Nay phân khoa Dược
tách riêng và dọn
về
trường
sở
mới
tại
số
169 Công Lư, góc
đường
Hiền
Vương.
Tuy là một
biệt
thự
cũ
sửa
lại,
nhưng
khang trang, rộng
răi, tương
đối
đủ
tiện
nghi. Có một
số
pḥng thí nghiệm
và mấy
pḥng học.
Có giảng
đường
lớn
chứa
cả
500 sinh viên. Nhân viên giảng
huấn
tuy c̣n thiếu,
nhưng
được
nhiều
phụ
tá lâu năm
thật
tận
tâm. Như
bà Thoa pḥng Kư Sinh Trùng, ông Thiện
pḥng Vật
Lư. Văn
pḥng có tạm
đủ
nhân viên, Tổng
Thư
Kư là giáo sư
Phạm
Đ́nh
Ái. Thư
Kư là ông Vũ
Ngọc
Oánh. Từ
trước,
chương
tŕnh theo như
của
Pháp gồm
5 năm
học.
Lúc tôi về
dậy
th́ chương
tŕnh
đă
được
đổi
mới
lần
thứ
nhất,
dựa
vào lư do là năm
tập
sự
cũ,
nay gọi
là năm
thứ
nhất,
có quá ít môn học,
nhất
là phần
lư thuyết.
Chuyển
ngữ
vẫn
là tiếng
Pháp. Hai môn Hóa Hữu
Cơ
và Hóa Vô Cơ
nay
đem
xuống
năm
thứ
nhất
và năm
thứ
hai trong chương
tŕnh mới.
Tuy nhiên, nhiều
môn học
vẫn
được
giảng
dậy
trong hai năm
liên tiếp
như
thường
lệ,
thành thử
c̣n phải
có chương
tŕnh chuyển
tiếp
cho các sinh viên
đang
theo học
chương
tŕnh cũ.
Giáo sư
Nguyễn
Mạnh
Hùng dậy
Hóa Hữu
Cơ.
Ông yêu nghề,
giỏi
và rất
tận
tâm. Ông
đến
sớm,
viết
dàn bài trên bảng,
và giảng
đủ
loại
cơ
chế
phản
ứng.
Tôi dậy
Hóa Vô Cơ,
phần
đầu
có Hóa
Đại
Cương,
phần
cuối
có các Tinh Thể
Chất
Khoáng. Nhưng
gập
nhiều
khó khăn.
Thứ
nhất
là sĩ
số
năm
thứ
nhất
quá
đông,
cả
ngàn sinh viên, nên phải
chia lớp
làm hai nhóm. Như
vậy,
mỗi
bài học
tôi phải
nhắc
lại
hai lần.
Thứ
hai là giảng
bằng
tiếng
Pháp th́ các sinh viên theo chương
tŕnh Việt
khó ghi chép
được,
mà giảng
bằng
tiếng
Việt
th́ các sinh viên theo chương
tŕnh Pháp không hiểu.
Tôi
đành
phải
soạn
bài
học bằng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt, rồi cho đánh máy
trước. Sinh viên khỏi cần ghi chép, khỏi lo
chữ
tác
đánh
chữ tộ,
đến
lớp
chỉ
để
nghe lời
giảng
bằng tiếng háp thôi. Nhưng tôi đâu có thể nói thao thao bất
tuyệt cả giờ được
nên mang tiếng
là hay
đến
trễ,
về
sớm.
Trong môn Hóa Vô Cơ,
rất
nhiều
điều
học
chỉ để
biết,
lúc cần
th́ tra cứu
chứ
không phải
thuộc
ḷng. Riêng năm
thứ
hai chương
tŕnh cũ
v́ có quá nhiều
môn, nên trong kỳ
thi giữa
năm,
tôi
đă
cho
đề
tài thi giới
hạn.
Lại
thêm một
việc
làm
để
bị
chê trách, nhưng
nếu
giáo sư
"tây" cho
được
th́ "ta" cũng
cho
được
chứ
sao?
Đến
lúc chấm
thi năm
thứ
nhất
th́ quả
là cực
h́nh, hơn
một
ngàn bài ít nhất
cũng
mất
cả
tháng trời.
Trong thời
gian này, tôi c̣n phải
dậy
Toán, về
Xác Suất
và Thống
Kê cho năm
thứ
hai Dược
Khoa, và phụ
trách Hóa Học
cho
năm thứ
nhất
trường
Nông Lâm Súc. Có nhiều
khi cũng
phải
chấm
kỳ
thi tuyển
vô Quân Dược.
Mấy
năm
sau sĩ
số
trường
Dược
mới
tạm
xuống
mức
giảng
dậy
được,
v́ lâu dần,
nhiều
sinh viên bị
loại
hay thấy
không hợp
với
ngành này nên tự
động
chuyển
sang ngành khác. Từ
niên khóa 65-66, khi trường
áp dụng
thi tuyển
chỉ
lấy
400 sinh viên mỗi
năm,
và tới
niên khóa 72-73 lấy
xuống
c̣n 200 một
năm,
th́ số
sinh viên mới
tiến
dần
tới
mức
ổn
định.
Nghĩa
là mỗi
lớp
có khoảng
200 tới
300 sinh viên. Các sinh viên trường
Dược
ngoài chuyện
học,
c̣n có người
có tài về
nhiều
bộ
môn thi ca nhạc
kịch.
Có báo
Đất
Sống
vào năm
1963 với
các anh Vũ
Văn
Tùng, Nguyễn
Ngọc
B́nh, Nguyễn
Văn
Hoàn, Nguyễn
Thu Giao, Bùi Khiết,
Lê Phục
Thủy,
Châu Thanh Thủy,
Lưu
Văn
Vịnh,
Lê Thanh Nam, Nguyễn
Đức
Vinh...
Chị
Hà Dương
Thị
Quyên có nhờ
tôi viết
một
bài "Đi
t́m những
chất
kháng sinh" cho số
ra mắt.
Tôi
đă
mô tả
những
nguyên lư về
sự
t́m ṭi và khảo
sát các chất
này.
Đa
số
các bạn
viết
cho
Đất
Sống
sau
đă
thành danh. Tôi cũng
được
nghe tiếng
hát truyền
cảm
của
Quốc
Thắng
với
bài "Tôi
đi
giữa
hoàng hôn", và gập
Mă Gia Minh
đàn
hay thơ
giỏi,
phu quân của
ca sĩ
nổi
danh Hoàng Oanh. Sinh viên thường
tổ
chức
các
Đại
hội
mừng
Xuân, những
Lễ
Tốt
Nghiệp,
các buổi
ra mắt
Ban
Đại
Diện
thật
vui vẻ
thoải
mái. Tôi c̣n nhớ
một
bài viết
thật
hay và cảm
động
của
chị
Ngô Tiên Dung
đọc
trong ngày ra trường
khóa 61-66. Và biết
bao nhân tài của
trường
Dược
kể
sao cho hết.
Đầu
năm
1963, giáo sư
Lê Văn
Thới
của
trường
Khoa Học
lên làm Viện
Trưởng
thay giáo sư
Nguyễn
Quang Tŕnh, nay chỉ
c̣n giữ
một
chức
vụ
Bộ
Trưởng
Giáo Dục.
Ông Thới
cổ
vơ việc
hiện
đại
hóa nền
đại
học,
và khuyến
khích các giáo sư đặt
trọng
tâm vào khảo
cứu.
Và người
ta bắt
đầu
để
tâm
đến
tác phong nhà giáo. Khoa Trưởng
Trương
Văn
Chôm lúc
đó
kiêm Chủ
Tịch
Tổng
Hội Giáo Giới, cũng ật tâm muốn lành mạnh hóa ngành giảng
huấn. Tôi có dịp gập ông đi
dạo
chơi
cùng bà vợ
và con cái trên
đường
Nguyễn
Huệ.
Ông yêu cầu
tôi nhận
dậy
thêm Thực
Tập
Vật
Lư cho lớp
Dược
Khoa năm
cuối,
thay thế
giáo sư
Hùng, tại
Bệnh
Viện
Đô
Thành, gần
Bùng Binh. Lại
một
trách nhiệm
mới
mà tôi phải
tạm
giữ
cho
đến
khi giáo sư Đặng
Vũ
Biền
về
nước.
Thời
gian này, chính trường
miền
Nam sôi
động
với
phong trào
đấu
tranh của
Phật
giáo. Như
các công chức
khác của
Đệ
nhất
Cộng
Ḥa, giáo chức
đại
học
cũng
được
đi
hay phải
đi
học
tập
lớp
Ấp
Chiến
Lược.
Chiến
dịch
lập
Ấp
này qui mô hơn
việc
tạo
lập
các Khu Trù Mật
trước
kia. Chúng tôi
ăn
ở
trong trại
tại
Suối
Lồ Ồ
gần
Biên Ḥa khoảng
một
hai tuần
lễ.
Trại
được
thiết
lập
trên một
mảnh
đất
rộng,
gồm
nhiều
dẫy
lều
với
giường
vải,
và
đủ
các hàng quán
ăn
uống.
Tôi nằm
gần
giáo sư
Chôm, cùng với
các
Đổng
lư, Chánh Văn
Pḥng bộ
Giáo Dục...
Lúc học
về
quốc
sách
Ấp
Chiến
Lược,
tôi thường
ngồi
cùng các giáo sư
Nguyễn
Thế
Minh, Nguyễn
Mạnh
Hùng, Lê thành Trị...
Nhiều
nhân viên cao cấp
của
chính phủ
đă
đến
lớp
giảng
dậy,
và dùng những
danh từ
thật
độc
đáo.
Bộ
trưởng
Nguyễn
Quang Tŕnh nói về
chiến
lược
hóa ngành giáo dục.
Đề
tài khó mà hiểu
được
đến
nơi.
Trung tướng
Trần
Ngọc
Tám nói về
du kích chiến.
Ông rất
am tường
đề
tài nên bài giảng
của
ông rất
hay.
Chỉ
tiếc
rằng
lúc này ông
đang
mắc
vào vụ
Cẩm Nhung
bị tạt acid nên cử hỉ của ông không được tự nhiên cho lắm.
Bộ trưởng Công Dân Vụ
Trương
Công Cừu
nói về
tự
túc tự
cường.
Là một
nhà văn
tài ba lỗi
lạc,
ông
đưa
ra những
khẩu
hiệu
như
"Tam túc, tam giác, tam nhân".
Đại
khái người
ta chỉ
cần
ba
điều
cho có
đủ,
ba
điều
đă
hiểu
biết
đến
nơi,
là thành người
công dân ích lợi
cho xă hội
bấy
giờ.
Ông mô tả
thật
hay những
đứa
trẻ
lem luốc
nhưng
vui chơi
hồn
nhiên nơi
bùn lầy
nước
đọng,
mong h́nh
ảnh
này làm người
nghe tin tưởng
ở
sức
sống
và tương
lai dân tộc
Việt.
Nhiều
buổi
học
c̣n có sự
hiện
diện
của
ông Cố
Vấn
Ngô
Đ́nh
Nhu. Ông Nhu thỉnh
thoảng
tới
góp ư kiến
hay cho chỉ
thị.
Có lúc ông nói rất
nhiều,
nhưng
thật
chúng tôi chẳng
lĩnh
hội
được
bao nhiêu. Một
lần
ông nói sấm
sét trên trời
chứa
biết
bao nhiêu là
điện
lực,
nếu
ta biết
cách thu giữ
lại
th́ dùng sao cho hết?
Ai nấy
chú tâm
ghi chép, nhưng có lẽ chỉ làm ra vẻ ghi chép thôi. Giáo sư
Minh, Hùng và tôi thường
kháo nhau không hiểu
mấy
vị
cao cấp
ngồi
dẫy
đầu
ghi lại
được
những
chữ
ǵ trên mặt
giấy?
Khi trực
thăng
đưa
ông Cố
Vấn
ra về
c̣n lùa bụi
lên mù mịt,
những
vị
này thường
đứng
đợi
cho
đến
lúc ông khuất
bóng mới
trở
lại
giảng
đường.
Dẫu
sao chúng tôi hiểu
lờ
mờ
rằng
không có viện
trợ
Mỹ
th́ nền
Đệ
nhất
Cộng
ḥa vẫn
có thể
tự
túc
để
tồn
tại
được.
Giáo sư
Hùng là người
có ư thức
chính trị
sắc
bén nhất
trong nhóm chúng tôi, nói là t́nh h́nh nghiêm trọng
lắm
rồi.
Một
hai tuần
trước
có việc
cấm
treo cờ
Phật
giáo nhân ngày Phật
Đản
tại
Huế,
rồi
các phong trào tranh
đấu
chống
chính phủ
gia tăng
nhanh chóng. Một
hôm
đang
học
tập
th́ các giáo sư
đại
học
được
yêu cầu
ra thông cáo
ủng
hộ đường
lối
chính phủ
trong vụ
Phật
giáo. Lại
họp
hành, thảo
luận,
rồi
đi
tới
việc
bỏ
phiếu
kín nên hay không nên ra thông cáo này.
Giáo sư
Nguyễn
Đăng
Thục,
nguyên Khoa Trưởng
Văn
Khoa có
đề
nghị
rằng
phiếu
sẽ được
đốt
ngay sau khi kiểm
để
tránh việc
truy tầm
ai bỏ
thuận
ai bỏ
chống.
Lúc này không ai bàn với
ai cả,
và tự
t́m hiểu
lấy.
Mấy
vị
kiểm
phiếu
viên
được
bầu
ra, và cuối
cùng phe chống
ra thông cáo
ủng
hộ
chính phủ
may mắn
hơn
được
có một
phiếu.
Lớp
học
được
bế
mạc
sau
đó,
và chiều
ngày 5 tháng 6 tôi ra về
th́ nhà tôi sinh cháu trai
đầu
ḷng tại
Bệnh
Viện
St Paul. Từ
đó,
việc
giảng
dậy
thêm một
phần
khó khăn.
Rồi
tới
vụ
tự
thiêu của
Ḥa Thượng
Thích Quảng
Đức,
các vụ
tăng
ni phật
tử
xuống
đường.
Gần
đến
ngày cách mạng,
sinh viên các trường
băi khóa không vào lớp
học.
Năm
thứ
ba Dược
có chị
Bùi thị
Hậu
Phúc tức
bà dược
sĩ
Bùi Hồng
đứng
lên yêu cầu
nghỉ
học,
trong giờ
học
của
giáo sư
Vũ
Ngọc
Trân. Mấy
hôm sau có tin chị
ấy
bị
bắt.
Tôi tới
trường
sợ
vào lớp
dậy
chắc
cũng
bị
ném
đá,
nên ra ngồi
dưới
gốc
cây. Có sinh viên yêu cầu
tôi từ
chức
và cho tôi biết
là các giáo sư
Phạm
Biểu
Tâm, Vũ
Văn
Mẫu
đă
từ
chức
cả
rồi.
Riêng Ngoại
trưởng
Mẫu
c̣n cạo
trọc
đầu
phản
đối.
Cách Mạng
1/11/63 khởi
đầu
lúc 1 giờ
trưa
và tôi không nhớ
rơ
đang
ở đâu
và làm ǵ. Chỉ
biết
có theo dơi tin tức
qua
đài
phát thanh. Vào ngày hôm sau, lúc gần
trưa,
đài
loan tin cách mạng
thành công. Người
dân tràn ra
đường
phố đông
nghẹt,
v́ hiếu
kỳ
cũng
có và v́ thấy
mọi
chuyện
yên
ổn
rồi
cũng
có. Chúng tôi
đang
lái xe về
hướng
chợ
Bến
Thành
để
thăm
thú t́nh h́nh th́
được
tin
đài
phát thanh cho biết
Tổng
Thống
Diệm
và ông Nhu
đă
chết
ngay trên xe
đưa
các ông về
Tổng
Tham Mưu.
Nền
Đệ
nhất
Cộng
ḥa với
bao hi vọng
ban
đầu
nay
đă
chấm
dứt
quá bi thảm.
(Mời xem:
Trường Dược Thời Hậu Cách Mạng 1/11
trong Kỳ 13)
Giáo Sư
Tô
Đồng
Khoa trưởng
trường Đại Học Dược Khoa Sài
G̣n
1974-1975.
www.ninh-hoa.com |
|