HÁN
VIỆT
DỊCH
SỬ LƯỢC
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học
Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
KÍNH DÂNG ANH HỒN CẬU D̉NG HỌ NGUYỄN-HỮU
VÀ HƯƠNG-HỒN MỢ D̉NG HỌ KHỔNG-TRỌNG
QUÁN LÀNG BẠCH-HẠC, XĂ PHONG-CHÂU,
TỔNG NGHĨA-YÊN, HUYỆN BẠCH-HẠC,
PHỦ VĨNH-TƯỜNG, TỈNH VĨNH-YÊN (BẮC-VIỆT)
ĐĂ TẬN-TỤY DƯỠNG-GIÁO CHÚNG CON
TRONG TINH-THẦN KHỔNG MẠNH VIỄN-ĐÔNG
TRANH "NHẤT TRẦN BẤT LẠC
一
塵
不
樂"
(1991) của ÂN-SƯ ĐỚI
LỜI PHÁT ĐOAN
Giữa
thập-niên 1960 nhiệt-trào học Dịch ở Sài-g̣n đang sôi nổi.
Tôi cũng như bao người khác, già có, trẻ có, đă tham-gia vào
pḥng-trào này.
1965.
Sài-G̣n đang giới-nghiêm. Một tối tháng 12 năm 1965, anh Lâm
Lư Hùng, cháu ngoaị của Âu Tiên-sinh, vị Đồng-tử đầu tiên
của Toà Thánh Cao-đài và Chùa Tam Tông Miếu, anh Trần Cao
Tần và tôi từ từ ngồi vào sàn nơi B́nh-nghị-thất
評議室
của Chùa. Một cơ duyên không tiền khoáng hậu là tối đó chính
Trần Hưng Đạo Đại Vương lên ngự bút để phát khởi một loạt
bài giảng về Dịch. Bài giảng tối đó là về Tam Dịch :
Bất
Dịch
不易,
Giao Dịch
交易
và Biến Dịch 變易.
Bất
Dịch
(invariant) ứng với định-luật của vũ-trụ và là tất cả những
ǵ không đổi thể cách như như Dịch Đạo, như bản-thể, như
noumema của Immanuel Kant, hay như pleroma của Carl Yung
v.v. Bất
Dịch ứng
với nguyên-lư Maupertuis trong cơ-học (Mechanics), với
nguyên-lư Fermat trong Quang-học H́nh-học
(Geometrical Optics), với nguyên-lư
Tác-động Tối-thiểu (Least Action Principle) trong Vật-lư
v.v. Biến Dịch bao gồm tất cả những ǵ biến đổi luôn luôn
như hiện-tượng, như creatura của Yung v.v. Dịch nói: “Dịch
cùng tắc biến. Biến tắc thông. Thông tắc cửu.
易窮則變則通通則久。”(Dịch
cùng ắt biến đổi, biến đổi ắt hanh-thông, hanh thông ắt lâu
bền) (Hệ-từ Hạ-truyện, II/5). C̣n
Giao Dịch (covariant) bao
gồm mọi trao đổi trong vũ-trụ dù là ta-bà hay Phật-cảnh.
Chẳng
hạn, trong toán-học, bất dịch là những hằng-số (constants),
biến-dịch là những biến-số (variables), c̣n giao-dịch là
những thông-số (parameters).
Chữ
Hán dịch
易
có hai âm dị và dịch, ứng với hai nghĩa: dễ và thay đổi.
Thông thường, theo thuyết của Trịnh Huyền đời Đông Hán, Tam-dịch
có nghĩa là dị-giản
易簡,
bất dịch và biến-dịch. Tiếng ghép dị-giản phải hiểu theo
nghĩa của ông Einstein là “simple but not simpler”.
Sớm
hôm sau về nhà tôi rất phấn-khởi. Câu hỏi đầu tiên tôi đặt
ra là tại sao có 8 quẻ đơn ba vạch mà lại có đúng 64 quẻ kép
6 vạch? Toán-thuyết về Tập-hợp (Set Theory) cho ngay câu trả
lời, nếu ta áp-dụng Định-lư Đại-tập
(Superset):
For every
set of n elements there are exactly 2n subsets.
Thật
vậy, mỗi vạch có thể là âm
?
tức vạch đứt (báo hiệu sự vắng mặt của vạch dương) hoặc
dương
>
tức vạch liền (báo hiệu sự có mặt của vạch này). Do đó,
trong trường-hợp quẻ đơn, tập-hợp rỗng (empty set) ứng với
quẻ Khôn
/ (cả
3 vạch đều đứt tức báo hiệu sự vắng mặt của vạch dương).
Vũ-trụ (the Universe) ứng với quẻ Kiền
!
(cả 3 vạch đều liền tức báo hiệu sự có mặt của vạch dương).
Ở đây n=3 v́ ta có 3 vạch nên ta phải có 23 = 8
quẻ đơn (bát-quái). Q.E.D. Đó là các quẻ Kiền
!, Đoài
#,
Ly
%,
Chấn
', Tốn
), Khảm
+,
Cấn
-, Khôn
/.
Mặt
khác, trong trường-hợp quẻ kép, tập-hợp rỗng (empty set) ứng
với quẻ Khôn
B
(cả 6 vạch đều đứt). Vũ-trụ (the Universe) ứng với quẻ Kiền
A
(cả 6 vạch đều liền). Ở đây
n=6 v́ ta có 6 vạch nên ta phải có
26 =
64 quẻ kép. Q.E.D.
Có
ba loại bát-quái phổ-thông là: bát-quái tiên-thiên (Phục-Hi),
bát-quái hậu-thiên (Văn-vương) và bát-quái bói toán (tức
Bát-quái Hậu-thiên lộn trong ra ngoài).
Bát-quái Tiên Thiên Bát-quái
Hậu Thiên Bát-quái Bói Toán
Để định-ư, xin độc-giả chưa quen với Dịch,
nằm ḷng bảng nhất-lăm dưới đây:
Quẻ |
Đại-số |
Số
học |
Tên |
Định-tượng |
Mô
tả |
! |
+ 3 |
7 |
Kiền
乾
|
Kiền vi Thiên |
乾 三 連 Kiền
ba liền
|
# |
+ 2 |
6 |
Đoài
兌 |
Đoài
vi
Trạch |
兌 上 缺 Đoài
khuyết trên |
% |
+ 1 |
5 |
Ly
離 |
Ly
vi Hỏa |
離 中 虛 Ly
rỗng giữa |
' |
+ 0 |
4 |
Chấn
震 |
Chấn
vi Lôi |
震 仰 盆 Chấn
bát
ngửa |
) |
-3 |
3 |
Tốn
巽 |
Tốn
vi
Phong |
巽 下 斷 Tốn
dưới
rời |
+ |
-2 |
2 |
Khảm
坎 |
Khảm
vi Thuỷ |
坎 中 滿 Khảm
giữa
đầy |
- |
-1 |
1 |
Cấn
艮 |
Cấn
vi Sơn |
艮 覆 碗 Cấn
bát
úp |
/ |
-0 |
0 |
Khôn
坤 |
Khôn
vi Địa |
坤 六 斷
Khôn
sáu khúc |
Bảng 01
Đặc-trưng Bát-quái Tiên–thiên
Cuối năm
1974, do lời mời của Cố Giáo-sư Cao Xuân Chuân (1931-2009),
Trưởng Ban Vật- lư Nguyên-tử ĐHKHSG, tôi có diễn-thuyết về
“Dịch và Cơ-học Nguyên-lượng” (Quantum Mechanics)
trong đó tôi nhấn mạnh về bản chất nhị-phân (binary) của quẻ đơn
và quẻ kép cũng như sự quan-trọng trong bói toán của
Nguyên-lư Bất-định (Uncertainty Principle) của Heisenberg,
liên-kết nhân-quả địa-điểm, thời-điểm và sự việc.
Năm
sau sang Canada tôi vẫn tiếp-tục truyền Dịch qua bài vở,
diễn-thuyết và toán-học. Ở Toronto tôi nói về “Hồn Nước
Trong Kinh Dịch”. Ở Ottawa tôi nói về “A Fly over the Yiching”.
C̣n ở Montréal tôi lại bàn về “Le Yi King et la Société Vietnamiennne”.
Thời Xuân Thu (722-481 BC) Kinh Dịch chỉ là một quyển sách
bói. Nay nếu ta đọc kỹ Tả-truyện
左傳
và Quốc-ngữ
國語
là hai quyển cổ-sử
Trung-hoa đương-thời, ta sẽ t́m được cả thẩy 23 điều liên-quan
đến Dịch trong đó có 5 điều chỉ nói đến bói dịch để biết
tương-lai hay để thuật lại chuyện bói toán các đời trước, có
8 điều bàn đến nghĩa-lư suy diễn từ quái-hào-từ và 10 điều
chuyên-luận về dịch-tượng suy ra từ
hào chi tức quái-biến.
Do đó ta có thể kết-luận là chính Tả-truyện và Quốc-ngữ đă
nâng Kinh Dịch từ bói toán lên hàng triết-lư. Chính nhờ
khoác áo bói toán mà Kinh Dịch đă thoát khỏi Ngọn Lửa Tần
năm
Mậu-tí (213 BC) tức hai năm sau khi Tần-Thủy-Hoàng thống-nhất Trung-quốc.
Lâu lâu tôi cũng nghĩ ra và giải vài toán-đề kiểu “Bản-chất động-học của ṿng tṛn Thái-cực”
(The Kinematic nature of the T’aichi Circle), từ đó tôi suy ra
toàn-đẳng
(congruence) các ṿng tṛn này. Dịch nói:
Dịch hữu
Thái-cực, thị sinh lưỡng-nghi, lưỡng-nghi sinh tứ-tượng, tứ-tượng
sinh bát-quái 易
有
太
極
是
生
兩
儀
兩
儀
生
四
象
四
象
生
八
卦',
nghĩa là: Đạo Dịch có Thái-cực, rồi sinh ra hai nghi, hai
nghi sinh ra bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ (Hệ-Thượng,
XI/5). Trên nguyên-tắc đây là Định-đề
(Axiom) của Dịch, nhưng nếu ta
dùng h́nh-học ta có thể chứng-minh ngay rằng hai đường chéo
AB và CD của h́nh vuông ngoại tiếp h́nh Thái-cực chia h́nh
này thành Tứ-tượng diện-tích đều nhau; sau đo hai trục đối-xứng
ngang WE và dọc
NS của h́nh thái-cực sẽ
chia h́nh này thành bát-quái. (Chú-ư : ở đây bốn phương Đông
(E), Tây (W),
Nam (S), Bắc (N)
là theo truyền-thống đông-phương).
Nhận
thấy rằng, ngoài toán-gia Goldenberg có để ư đến khía cạnh
Đại-số Trừu-tượng
(Abstract Algebra)
của Dịch, học giả toàn-cầu chỉ để ư đến
khía cạnh số-học của quẻ, trước nhất tôi cho mỗi quẻ một
trị-số đại-số để dùng vào việc xác-định thăng bằng âm-dương.
Sau đó tôi đem áp-dụng Toán-thuyết Nhóm (Group Theory) cho
quẻ Dịch cũng như thủ
(tetralines)
của Thái-huyền bằng hàng loạt định-lư
(theorems), bổ-đề (lemmas) và hệ-luận (corollaries). Đáng kể
nhất là Định-lư Nguyễn Hữu Quang:
64
hoàn-hỗ-quái
環互卦
lập thành một nhóm giao-hoán (The 64 flat-toral
hexagrams constitute an abelian group) với hệ-luận căn-bản:
"Từ một nguyên-quái đến bất kỳ một biến-quái nào, có ít nhất
là một trung-gian-quái" (“The pathway from any initial
hexagram to any other final hexagram contains at least one
hexagram”. If the latter is unique, it is called
intermediary hexagram and forms the so-called signature of
the related pathway). Do đó 64 quẻ kép lập thành một mạng
(network) với cấu-trúc ngôi sao (star topology),
Mặt khác,
81 thủ của Thái-huyền lập thành một nhóm 3 giờ (3 O’ Clock
Group).
Tôi cũng
không quên lập bảng phân-hạng tuần-hoàn Mendeleev bằng 64
quẻ và lập bảng liệt-kê (Charting) các vi-tử và phản-vi-tử bằng quẻ và
thủ. Sau đó tôi nghiêm-chỉnh thiết lập toàn-đẳng giữa 64 quẻ
Phục-hi với mật-mă di-truyền Watson-Crick. Ngoài ra tôi đă
dùng quẻ đụp (dodecagrams) của Tiêu Diên Thọ để ghi mật-mă
của AFIP (Automated Fingerprint
Identification Systems), rất hữu ích cho FBI, RCMP hay
medical examiners.
TIỀN
NGÔN
Ai ai cũng
coi Thales của thành phố Hy-lạp Miletus bên bờ biển Iona như
người khởi xướng tư-tưởng Khoa-học. Ông cũng là một
triết-gia. Thời ông Triết-lư Thiên-nhiên (Natural
Philosophy) gồm cả Khoa-học nữa. Ông sống khoảng thế-kỷ thứ
6 BC. Theo truyền-thuyết, ông tiên đoán nhật thực năm 585
BC. Tư-tưởng Thales khoa-học ở chỗ dựa vào thực-chứng mà
kết-luận. Ông cũng để lại cho chúng ta định-lư Thales
của
h́nh-học mà ngày nay chúng ta có thể phối-hợp với toàn-đẳng
h́nh học
(Congruence) để chứng minh định-lư Pythagoras mà không cần
phải vẽ h́nh như trong H́nh-học Euclid hoặc trong Chu-bễ
Toán-kinh
周髀算經,
hay không cần phải định-nghĩa như trong H́nh-học Phóng-chiếu
(Projective Geometry).
Ông
chủ-trương thế-giới xuất-phát từ nước. Thuyết này được các
đệ-tử của ông khai-triển thành triết-phái Miletus (Milesean
school), trong đó Anaximenes là người đă thấy rơ nhược-điểm
về thế-giới-quan của Thalès. Ông này cho rằng nguyên-ủy của
vật-chất phải là không-khí mà khi bị nén sẽ thu nhỏ lại để
biến thành nước; khi bị ép nước sẽ biến thành đất, và khi bị
ép thêm nữa sẽ biến thành đá. Tóm lại vật-chất đều là
biến-thái của không-khí. Trong một bức thư gửi cho
Pythagoras ông thuật lại cái chết của Thalès: "Thalès đă
chết bất đắc kỳ tử. Theo thói quen, một đêm ông ra khỏi nhà
với một nữ-tỳ để ngắm sao. Khi ngửa cổ nh́n bầu trời đêm,
ông quên hết trời trăng và ngă xuống triền đồi." Thời đó các
thành-thị cổ-Hy-lạp càng ngày càng ít v́ đế-quốc Ba-tư đang
tây-tiến về hướng Anatolia và đă đến gần bờ biển Agee. Năm
494 BC quân-đội Ba-tư đă tràn ngập Miletus và sử không ghi
số-phận của Anaximenes. Chưa đầy một thế-kỷ Triết-phái
Miletus đă bị diệt. Chỉ sau bốn năm, phục-quốc-quân Hy-lạp
đă đánh đuổi quân xâm-lăng ra khỏi xứ trong trận Marathon. (Sứ-giả
báo tin khải-hoàn đă gục ngă v́ kiệt sức sau khi đă chạy 26
miles và 385 yards tức 42.195 km từ Marathon về Athens. Để
tưởng nhớ sự-kiện này, ngày nay ta mới có các cuộc thi chạy
bộ Marathon.)
Sau
Miletus, triết-lư đă chuyển qua Iona và các địa-phương khác
của Hy-lạp. Thành phố chính của Iona là Ephesus, và
triết-gia nổi tiếng nhất của nơi này hẳn là Heraclitus, sinh
khoảng năm 540 BC. Ông cho rằng nguyên-tố chính của vật-chất
là lửa và nhận thấy rằng Anaximenes chỉ mới giải quyết phiến
diện vấn-đề. Ông nghĩ rằng muốn thu về một mối, cái 'một'
này phải phi-vật-chất. Ông nói: “Thế-giới đă, đang và sẽ là
lửa thường hằng từ từ nhúm lên để rồi từ từ lụi tàn.” Ông
dơng dạc tuyên-bố: “Panta Rei ” (Mọi sự vật đều lưu thông =
Everything flows); “Không ai có thể bước vào cùng một con
sông hai lần”; “Mặt trời ngày nào cũng đổi mới”.
Bao thế-kỷ
qua, các triết gia có khuynh-hướng khoa-học đều cho
triết-thuyết của Heraclitus là huyễn-ảo. Duy có lạt-ma kiêm
dịch-gia Anagarika Govinda (1898-1985), trong tác phẩm
The Inner Structure of the I Ching (1981) là tán-thành
triết thuyết của Heraclitus.
Bên trời
đông, tại Trung Hoa chúng ta cũng có Lăo-tử
老子,
sáng-tổ của Lăo-giáo c̣n gọi là Đạo-giáo và Khổng-tử
孔子
(551-479), tỵ-tổ của Khổng-giáo c̣n gọi là Nho-giáo. Cùng
thời cũng có Mặc Địch
墨翟
(490?-403) viết ra Mặc-kinh quảng-bá triết-thuyết “Kiêm ái”,
đồng thời cũng chứa đựng ít nhiều tư-tưởng Toán-học (17 điều)
và Khoa-học (Quang-học 8 điều và Lực-học 11 điều), xuất-hiện
đó đây trong Kinh Thượng, Kinh Hạ.
Theo sách
Chu Lễ
周禮
(Thiên Xuân-Quan, Chương Tông-bá), quan Thái-bốc có
nhiệm-vụ trông coi ba bộ Kinh Dịch thời Tam-Đại là Liên-sơn
連山,
Quy-tàng
歸藏
và Chu Dịch周易.
Mà Lăo-tử là một viên Sử-quan Đời Đông Chu nên ông hẳn
không xa lạ ǵ với công việc của quan Thái-bốc, tức
suy-diễn Bói dịch từ tượng-số
của quẻ. Nên có người cho rằng
ông Lăo đă “dân Dịch nhập Đạo引易入道”.
Khổng-tử hỏi lễ nơi Lăo-tử chí cốt để “minh đạo lập giáo
明道立教”.
Về già Ngài mới bắt đầu đọc kỹ Dịch, đến nỗi rách lề ba bân
(vi biên tam tuyệt). Tử viết: “Gia ngă sổ niên, tốt dĩ học
Dịch khả dĩ vô đại-quá hỹ
加我數年卒以學易可以無大過矣
= Nếu trời cho ta sống thêm vài năm
để học Dịch cho đến chềt, ta có thể không phạm lỗi lớn vậy”
(Luận Ngữ, VII/16).
Tại Ấn-độ,
Đức Phật-tổ Thích-ca Mâu-ni
(thế-kỷ V BC) bắt đầu lập ra một tôn-giáo mới để chống lại
đạo Bà-la-môn. Ngài nhận thấy đời là bể khổ gây ra bởi ham
muốn. Muốn diệt dục, cần diệt ngă: có thế mới mong thoát
khỏi luân-hồi để lên cơi Niết-bàn (Nirvana).
Tại Ba-tư,
khoảng thế-kỷ VII hoặc
VIII BC, người tôn thờ Thần Lửa Zarathustra cũng canh
tân tôn-giáo cổ của Ba-tư để sáng-lập ra Hỏa-giáo
(Zoroastrianism), sau này có ảnh-hưởng ít nhiều tới Do-thái-giáo
(Judaism) và Hồi- giáo (Islam).
Triết Tây
gồm hai ngành Hy-bá-lai và Hy-lạp. Cả hai đều nhị-nguyên,
nghĩa là chia thực-tại thành hai phần đối-lập: Cổ-do-thái
th́ chia theo tôn-giáo và luân-lư với Thượng-đế ngự-trị
trên nhân vật; c̣n Cổ-hy-lạp lại phân-biệt thế-giới của
trí-tuệ với thế-giới của quan-năng. Triết-gia kiêm toán-gia
Alfred North Whitehead đă nhận xét rất đúng là 25 thế-kỷ
Triết Tây chẳng qua chỉ là một loạt cước-chú Plato (428-348
hay 347 BC).
Trái lại,
Triết Đông nhất-nguyên dù là Bà-la-môn, Phệ-đà, Phật-giáo,
Kỳ-na-giáo
耆那教
(Jainism), Tăng-khư-phái
僧佉派
tức
Số-luận-phái
數論派
(Sādkhya), Du-già
瑜 伽
(Yoga) tức
Mật-giáo
密教
(
Tantra) của Ấn-độ, hoặc là Tam-giáo tức Nho, Đạo, Phật của
Trung-quốc. Phật đây được hiểu nghĩa là Phật-giáo Thiền-tông
(Chan =
禪
Thiền = Dhyāna), đă du-nhập Trung-quốc khoảng thế-kỷ thứ 2 và
truyền sang nước ta từ đời Nhà Lư, hồi thế-kỷ XI, và khi
du-nhập Nhật-bản vào thế-kỷ XII đă trở thành Zen. Thiền là
kết-quả cuộc va chạm giữa tinh-thần hư-cấu và tư-biện
(speculative) của Ấn-độ với tinh-thần chất-phác, thiết-thực
nhưng đầy trực-giác của người Á-đông. Ta có thể ví Tam-giáo
như ba đỉnh đáy của một tứ-diện mà Dịch chiếm đỉnh thứ tư.
Sức mạnh của minh-triết Á-đông nằm ngay tại tâm tỷ-cự
(barycentre) của tứ-diện Triết Á-đông này và là điểm tựa cho
Đại Dịch Học suy cứu Kinh Dịch, Thái Huyền
Kinh
太玄經
và
Hoàng Cực Kinh Thế Thư Số
皇極經世書.
Phàm muốn nghiên-độc nguyên-bản một cổ-tịch nào đó, ta cần
phải am-tường ngữ-văn đương-thời. Israel có Kinh Thánh
Do-thái-ngữ
(Hebrew Bible), Tora, Talmud, Sepher Yetsira, Qabala viết bằng
tiếng Cổ-do-thái (Hebrew). Hy-lạp có các di-phẩm của
Heraclitus (540?-480? BC), Socrates (470?-399 BC), Plato,
Aristotle (384-322 BC), Euclid (Thế-kỷ III BC), Ptolemy
(Thế-kỷ II AD), viết bằng tiếng Cổ-hy-lạp. Ấn-độ có bốn Kinh
Phệ-đà
吠陀
(knowledge --> wisdom):
Rig Veda, Sama Veda, Shukla Yapur Veda và Atharva Veda, các
Upaniṣads
(尼沙陀
Ni-sa-đà),
các Brāhmaṇas
(婆羅門
Bà-la-môn) v.v. viết bằng chữ Phạn
梵 字
(Sanskrit). Trung-Hoa có ba Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch
viết bằng Trứu-văn
籀 文
tức đại-triện
大篆
do Sử Trứu chế ra đời Chu-tuyên-vương. Sang đời Tần, Hán,
sách mới được chép sang Tiểu-triện
小篆
tức Tần-triện
秦篆,
nét chữ tṛn trịa v́ viết bằng ống sơn đen, rồi Lệ-thư
隸書,
c̣n gọi là Tả-thư
左書,
được giản-hoá và nét chữ vuông vức hơn v́ được viết bằng bút
lông trên giấy, mới được Việt-nhân Sái Luân
蔡倫,
tự Kính-trọng
敬仲,
người đất Quế-dương, chế ra đầu đời Đông-Hán (Thế-kỷ thứ I
Công-nguyên).
Trong khi Cổ-sử Việt-nam chỉ có một thời-kỳ duy nhất của
Hồng-bàng-thị
鴻龐氏 (2879?-258
BC), Cổ-sử Trung-hoa lại chia thành ba thời-kỳ: Thượng-cổ,
Trung-cổ và Hạ-cổ.
Thượng-cổ là thời đại của Tam-Hoàng và Ngũ-Đế. Tam-Hoàng tức
Thiên-Hoàng Phục-hi-thị 天皇伏羲氏,
Địa-Hoàng Thần-nông-thị
地皇神農氏
và
Nhân-Hoàng (Hoàng-đế) Công-tôn Hiên-viên-thị 人皇(黃帝)公孫軒轅氏.
Theo Khổng An Quốc
孔 安國
(Thượng Thư Tự
尚 書序)
cũng như Hoàng Phủ Bật
黃甫謐
(Đế Vương Thế-kỷ 帝王世紀),
Ngũ-Đế là Thiếu-hạo少昊,
Chuyên-húc
顓頊,
Cao-tân
高辛
(Đế Khốc
帝嚳),
Đường Nghiêu
唐堯
và Ngu
Thuấn 虞舜.
Trung-cổ là thời-kỳ của Nhà Hạ
夏
(2183-1752 BC?) và Nhà Thương/Ân 商/殷
(1751-1112 BC), c̣n Hạ-cổ là thời-kỳ
của Nhà Chu
周
(1111-248 BC).
Thời nào Dịch nấy, kinh-điển nấy và bát-quái nấy. David
Keightley, một sử-gia danh tiếng của Đại-học California tại
Berkeley, có dùng tiếng ghép “vô-nhiễm無染”
(immaculate) để ám-chỉ việc “đội măo đi hia” cho các
tác-phẩm cổ không rơ tác-giả. Như vậy, theo truyền-thuyết,
Tam Hoàng là tác-giả vô-nhiễm của Tam Phần
古三 墳
tức Sơn-phần 山墳
(Phục Hi), Khí-phần
氣墳
(Thần Nông) và H́nh-phần
形墳
(Hoàng-đế), c̣n Ngũ Đế là tác-giả vô-nhiễm của Ngũ Điển
五典
tức năm phép tắc cai-trị của Ngũ-đế. Mao Tiệm
毛漸
Đời Tống
cho rằng chính Cổ Tam Phần là tiền thân của Tam Đại
Dịch三代易
của ba nhà Hạ, Thương Chu: Liên-sơn
連山,
Quy-tàng
歸藏 và
Chu Dịch
周易.
Cổ Tam Phần bàn nhiều về Tượng, c̣n Tam Đại Dịch lại
chú-trọng đến danh-xưng và đặc-tính các quẻ kép.
CHƯƠNG I
TAM
HOÀNG
DỊCH
Sách Chu Lễ, thiên Xuân-quan Tông-Bá Đệ Tam chép: “Ngoại-sử
coi giữ sách vở của Tam Hoàng, Ngũ Đế”. Trịnh Huyền chú
thích: “Tam Phần, Ngũ Điển” nhưng không nói đến nội dung các
sách này .
Trong bài thơ chữ Hán “Văn Đồng Niên Vân Đ́nh Tiến Sĩ Dương
Thượng Thư Cụ Tam-nguyên Yên-đổ Nguyễn Khuyến
三元安堵阮勸
(1835-1910) khóc bạn là Cụ Nghè Vân-đ́nh Dương Khuê
揚珪
(1839-1902) có sáu câu:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:
Chén quỳnh-tương (1) ăm-ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao Đông-bích
東壁
(2),
Điển Phần典墳
(3), trước sau.
Buổi dương cửu
陽九
(4) cùng nhau hoạn-nạn,
Miếng đẩu thăng
斗升
(5) chẳng dám tham trời (6).
Lại có câu:
Giường
kia treo những hững hờ (7),
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn (8)!
(1) Quỳnh-tương
瓊漿
(quỳnh: tên một thứ ngọc quư; tương: nước cốt): rượu ngon,
rượu quư.
(2)
Đông-bích
東壁:
nghĩa là vách phương đông; chữ lấy từ câu thơ của Trương
Thuyết
張 說:
“Đông-bích đồ-thư phủ
東 壁 圖 書 府”,
có nghĩa là kho tranh và sách ở vách phương đông.
(3) Điển
Phần
典墳:
Điển là Ngũ-điển
五典,
c̣n Phần là Tam-phần 三墳.
Trong bài
tựa Kinh Thư, đoạn nói về Ngũ-Điển, Khổng An Quốc có nói
rằng: “Đây là năm quyển sách của Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao
Tân, Đường Nghiêu, Ngu
Thuấn chuyên nói về Đạo thường”. Giả Quỳ nói: “Ngũ-điển là
điển của Ngũ-đế. Khổng Dung lại nói: “Ngũ-điển là Ngũ-h́nh”.
Đỗ Dự không tin, nên bảo Ngũ-điển là sách cổ. Tương-tự Tam
Phần cũng là ba sách cổ thường được gọi chung là Cổ Tam Phần
tức Sơn Phần山
墳, Khí Phần 氣墳và
H́nh Phần 形
墳.
(4) Dương
cửu
陽九: nguyên-văn 厄運逢陽九
lấy từ Hán-thư Luật-lịch-chí
漢書律歷志
(Thư-tịch-khảo
1C,
tr. 401-446):
Bách lục dương cửu
百六陽九.
Nghĩa là ách-hội tức là hồi có tai-ách. Có ba
thuyết, nhưng thuyết
đầu là hợp-lư
hơn cả:
a) Hán-thư
Luật-lịch-chí:
Thoạt đầu là vào Nguyên, 106 dương 9, thứ nh́ là 374
âm 9, thứ ba là 480 dương 9, thứ tư là 720 âm
7, thứ năm là 720 dương 7, thứ sáu là 600 âm
5, thứ bẩy là 600 dương 5, thứ tám là 480 âm
3 và thứ chín là 480 dương 3, phàm 4617 năm mà
thành trọn một nguyên. Vị chi là 4560 Kinh-tuế (tức thường
tuế) và 57 tai-tuế. Tóm lại 4617 tuế là một Nguyên,
dương là hạn-tai (hạn hán), âm là thủy-tai (Xin xem Sớ của
Thiên Vương-chế trong Kinh Lễ và ô chót
Bảng
21.1
Bảng
Tỷ-giảo Dịch/Huyền).
Chú ư
: độc-hữu nào thích Thiên-văn như bút-giả, xin đọc đoạn
thiên-văn-
gia Von Robert Henseling tính các chu-kỳ kể
trên trong sách Sternkunde und
Weltbild im Alten China
(Thư-tịch-khảo
1D,
tr. 126-7).
Xin tóm tắt. Ta có:
4617 = 9 x 513; 513 = 8 x 60 + 33; 4617 =
(9 x 480) + (4 x 60) + 57 và
57
= (3 x 9) + (3 x 10) = (3 x 9) + (6 x 5) = 9 + 9 + 9 + 7 + 7
+ 5 + 5 + 3 + 3.
Từ đó ta suy ra 9 thời-đoạn tai-ách: { I 106
+ 9 II 374 + 9 }
®
480 + 2 x 9 III 480 + 9 IV 720 + 7 V 720 + 7 VI 600 + 5 VII
600 + 5 VIII 480 + 3 và
IX 480 + 3. (60 biểu-thị một Hoa-giáp).
Chú
ư: Xin tham-khảo Thư-tịch-khảo
1C
(Hán Thư, Quyển thứ 99, Liệt-
truyện thứ 69, Truyện Vương Măng, tr.2068) để
xem cách tính ức đoán thời-đoạn tai-ách của y để tiếm ngôi
Hoàng-đế:: Măng thượng-tấu
Thái-hậu rằng:
“Bệ-hạ chí thánh, gặp buổi hoàng-gia lâm ách
bẩy đời ( 7 x 30 = 210 năm ...”
b) Đạo-thư
gọi dương-ách là dương-cửu, địa-khuy là bách-lục, 3300 năm
là
một tiểu-dương-cửu, tiểu-bách-lục, 9900 năm
là đại-dương-cửu, đại-bách-lục (Xin xem Linh-bửu Thiên
Địa Vận-độ-kinh
靈寶天地運度經).
c) Thái-ất lấy 456 năm làm một dương-cửu,
288 năm sau làm một bách-lục. (Xin xem Du-hoạn Kỷ-văn 游宦紀文 của
Trương Thế Nam 張世南).
(5) Đẩu thăng斗
升:
đấu và thăng = 1/10 đấu. Lương bổng
các quan ngày xưa một phần trả bằng gạo. Nếu lấy đấu và
thăng mà đong gạo th́ kể là ít.
(6) Tham
trời
參天:
lấy chữ từ thiên Thuyết Sơn
說山trong
sách Hoài Nam Tử
淮南子,
nghĩa bóng là vọng thiên
望天
(trông mong vào ông trời)._
(7) Bài
“Đằng Vương Các Tự
滕王閣序”
của Vương Bột
王勃có
câu: “Nhân-
kiệt địa-linh, Từ Trĩ há Trần Phồn chi tháp 人傑地靈徐穉下陳蕃之榻”
có nghĩa là: “Hào-kiệt là do linh-tú của đất hun đúc nên,
cao-sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Thái-thú Trần Phồn”.
Câu này lấy ở điển-tích:
Trần Phồn tháp bất hạ
陳蕃榻不下:
Đời Đông Hán có Trần Phồn
陳蕃
làm thái-thú quận Nam-xương, miền đó có một
cao-sĩ là
Từ
Trĩ
徐穉,
tự
Nhụ-tử
孺子.
Họ Trần rất qúi trọng Trĩ. Có để riêng một chiếc giường: Trĩ
lại chơi
kéo giường xuống mời ngồi, Trĩ đi lại treo lên, không cho ai
khác ngồi nữa.
(8) “Bài
Tựa nêu trên cũng có câu: “Chung Kỳ kư ngộ, tấu Lưu
thủy dĩ hà tàm
鍾 期 既 遇 奏 流
水
以 何
慚
?”
có nghĩa là: đă gặp Chung Tử Kỳ tấu khúc
lưu-thủy, há hổ thẹn ǵ? Câu này lấy ở tích Bá Nha:
Đời Xuân Thu, nước Sở có một người tên là Bá Nha
伯牙
đánh đàn sắt rất hay. Mỗi lần dạo đàn ư tại cao-sơn hay lưu-thủy,
Chung Tử Kỳ
鐘 子期
nghe qua đều biết cả; Tử Kỳ mất, Bá Nha tự nhủ trên đời
chẳng c̣n tri-âm nào biết thưởng-thức tiếng đàn của ḿnh nữa,
nên bửa đàn bứt dây, trọn đời không gẩy đàn nữa.
Tả-truyện, Chiêu Công năm thứ 12, có chép: “Sở-tử trở ra.
Lúc đó quan Tả-sử Ỷ Tương左史倚相rảo
bước qua trước mặt. Sở-tử nói: gă ấy thật là lương-sử. Thuộc
hết cả Tam Phần, Ngũ Điển, Bát Sách八索,
Cửu Khâu 九丘”.
(左 傳,昭公十二年(楚靈)王出,復語﹕左史倚相,是能讀三墳,五典,八索九
丘。(Tả
Truyện, Chiêu Công thập nhị niên) (Sở Linh) Vương xuất, phục
ngữ: Tả-sử Ỷ Tương thị năng độc Tam Phần, Ngũ Điển, Bát Sách,
Cửu Khâu).
Vẫn theo Khổng An Quốc
孔安國,
Cửu-khâu là Địa-dư-chí của Cửu-châu và khâu có nghĩa là tụ:
ư nói là tất cả thổ-sản và thổ ngơi của Cửu-châu đều tụ
trong sách này. Giả Quỳ lại nói: “Cửu-khâu là răn họa mất
nước”. Đấy là dùng chữ khư
墟
(tiêu-diệt) mà huấn nghĩa chữ khâu. Trong Thích Danh 釋名,
thiên Thích Điển Nghệ, Việt Nhân Lưu Hy
劉熙lại
cắt nghĩa chữ khâu là khu: khu-biệt thổ-khí và giáo-hóa
thích-hợp của Cửu-châu.
Thơ Yên-đổ, bài “Tự Trào” có câu:
Mở miệng nói ra gàn Bát Sách,
Mềm môi chén măi tít cung
thang.
Cung Thang hay
Cung Thương là hai bậc đầu trong ngũ-âm: Cung
宮
(Do), Thương
(Re), Giốc
角
(Mi),
Chủy
徵
(Sol),
Vũ
羽
(La).
Tít cung thang có nghĩa là cao vút như hai nốt Do và Re ở
thang cao.
Xin xem toàn bài trong phần Phụ-Lục nơi cuối Bài.
C̣n bát sách là ǵ? Theo lời chú Tả-truyện
của Đỗ Dự
杜預,
Tam Phần, Ngũ Điển, Bát Sách, Cửu Khâu đều là tên sách cổ.
Trong Bài Tựa Kinh Thư, Khổng An Quốc viết: “Thuyết về bát-quái
gọi là bát sách, viết ra cốt để hiểu nghĩa 8 quẻ. Trong
“Thích Danh, Chương Thích Điển Nghệ, Việt-nhân Lưu Hy lại
bảo: “Sách
索
nghĩa giống chữ tố
素,
vậy nên Bát Sách là tám phép của Tố Vương tức Đức Khổng-tử
chế ra, bởi chưng Ngài là Thánh không phải là Vua nên người
đời sau gọi Ngài là Tố Vương”. Trong lời chú Tả Truyện Giả
Quỳ
賈逵
cũng viết: “Bát Sách là phép của Tố Vương” (Căn cứ vào lời
dẫn bài “Khổn Cư” trong “Văn Tuyển
文選”
do Chiêu Minh Thái-tử
昭明太子
Đời Lương
梁soạn.
Mỗi Nhà cắt nghĩa theo ư riêng, không có ǵ là chính-nghiệm.
Đỗ Dự không tin, nên bảo là sách cổ.
Thiên “Nghệ Văn Chí 藝文志”
trong Hán Thư 漢書
(TTK, sách Thất Lược
七略của
Lưu Hâm
劉歆
Đời Đông Hán, Thiên “Kinh Tịch Chí
經籍志”
trong Tùy Thư
隋書đều
không thấy nói đến Cổ Tam Phần. Sách Cổ Tam Phần (1 Q.) hiện
c̣n giữ được là bản của Tể-tướng Trương Thương Anh
張商英t́m
thấy ở nhà dân, dưới triều Nguyên Phong Đời Bắc Tống. Trong
Quận Trai Độc Thư Chí
郡齋書志,
Triều Công Vũ
晁公武
cho là nguỵ thư. Trong Thư Lục Giải Đề
書錄解題,
Trương Chấn Tôn
陳振孫
cũng cho là họ Trương ngụy tạo nhưng lại nói là Mao Tiệm
毛漸 t́m
ra sách đó trong dân-gian vùng Đường-châu. Đời Minh, Hà
Thang
何鏜
đem in chung vào với bộ Hán Nguỵ Tùng Thư
漢魏叢書,
đằng trước có bài Tựa của Mao Tiệm. Sách đề là do Nguyễn Hàm
阮咸(một
nhân-vật trong Trúc-lâm Thất-hiền)
Đời Tấn
晉chú.
Sách đựợc chia làm ba phần: Sơn Phần, Khí Phần và H́nh Phần,
để phân-giải Tam Dịch của Tam Hoàng. Sơn Phần là Dịch
của
Thiên Hoàng Phục Hi thị, tức Liên Sơn Dịch. Khí Phần (đôi
khi c̣n gọi nhầm là Địa Phần) là Dịch
của Nhân Hoàng Thần Nông
thị, tức Quy Tàng Dịch. Sau hết, H́nh Phần là Kiền Khôn Dịch
乾坤易 của
Địa Hoàng Hiên Viên thị, khác hẳn Chu Dịch.
Theo thói quen, người ta ngỡ rằng Địa Hoàng là Thần Nông thị
và Nhân Hoàng là Hiên Viên thị v́ nhớ đến câu Tam-tự-kinh :
Tam-tài giả Thiên Địa Nhân
三才者天地人.
Giang-sơn nào, anh-hùng nấy : trong lănh vực Dịch, Dịch-lư
là tối-thượng. Phật-tổ nói : Thiên thượng, địa hạ, duy Ngă
độc tôn. Mà Ngă là người, nên mới làm vạch nối giữa Trời và
Đất như ta thấy trong chữ vương
王 hay
nhất là chữ nhâm壬
: đầu đội trời, chân đạp đất. Huống hồ mỗi quẻ kép (hexagram)
gồm 3 hào kép (digram) từ trên xuống là thiên-, nhân- và điạ-hào.
Nhân-hào c̣n gọi là trung-hào
中爻
(kernel), cũng quan-trọng không kém ǵ "lơi" của một phương-tŕnh
tích-phân (integral equations), tức thị cửa sổ nh́n vào
chuỗi thời-gian (time series). Sau này, ta sẽ c̣n bàn nhiều
về trung-hào.
Bài Tựa "Cổ Tam Phần” của Mao Tiệm
Mỗi Tam-phần viết bằng Đại-triện đều có kèm theo Truyện viết
bằng Lệ-thư. Sơn-phần nói về : Quân, Thần, Dân, Vật, Âm,
Dương, Binh, Tượng, gọi chung là Liên-sơn ; Khí-thần
nói về : Quy, Tàng, Sinh, Động, Trưởng, Dục, Chỉ, Sát, gọi
chung là Quy-tàng ; H́nh-phần nói về : Thiên, Địa,
Nhật, Nguyệt, Sơn, Xuyên, Vân, Khí, gọi chung là Kiền
Khôn. Tam Phần ở đây khác hẳn Tam Phần của tiên-nho.
Chúng phân theo nghĩa, theo loại, nói rơ hết lư của trời đất.
Lại có thêm bốn thiên : Thái-cổ Hà-đồ thế Tính-kỷ (họ hàng),
Thiên-hoàng-sách-từ, Nhân-hoàng Chính-Điển, Địa-hoàng Chính-điển,
văn-từ phác-lược, tuồng như di-thư đời thượng-cổ. Dận Trưng
dẫn Chính Điển nói rằng : thời trước giết mà không ân-xá
không ghê gớm bằng thời nay giết mà không cứu. Họ Khổng bảo
đó là điển-tịch Vua Nhà Hạ dùng để trị dân, phù-hợp với Kinh
Thư, há hậu-nhân ngụy-tác được sao ? Thế-nhân cho là sách ấy
đă ẩn từ thời Hán, người đời sau làm sao mà có được. Ngay
đến Kinh Thư thời Hán cũng c̣n khó mua được, măi đến đời Hán
Vũ-đế mới thoát ra từ vách nhà cổ. Há cũng coi là ngụy-thư
sao ? Ta khảo sách này, tin-tưởng là thứ thiệt, lưu lại cho
quân-tử hiếu-sự, nên viết lời tựa.
1)
Sơn-phần 山
墳
(Thiên Hoàng Phục Hi thị
天皇伏羲氏)
1.
崇 山 君 Sùng
Sơn Quân 2.
君 臣 相
Quân Thần Tướng
3.
君 民 官 Quân Dân Quan 4.
君 物 龍
Quân Vật Long
5.
君 陰 後
Quân Âm Hậu 6.
君 陽 師
Quân Dương Sư
7.
君 兵 將 Quân
Binh Tướng 8.
君 象 首
Quân Tượng Thủ
9.
伏 山 臣
Phục Sơn Thần 10.
臣 君 侯
Quân Thần Hầu
11.
臣
民
士
Thần Dân Sĩ
12. 臣
物
龜
Thần Vật Quy
13.
臣 陰 子 Thần
Âm Tử 14.
臣 陽 父
Thần Dương Phụ
15.
臣 兵 卒 Thần
Binh Tốt 16.
臣 象 股
Thần Tượng Cổ
17.
列 山 民
Liệt Sơn Dân 18.
民 君 食
Dân Quân Thực
19.
民 臣 力 Dân
Thần Lực 20.
民 物 貨
Dân Vật Hóa
21.
民 陰 妻 Dân
Âm Thê 22.
民 陽 夫
Dân Dương Phu
23.
民 兵 器 Dân
Binh Khí 24.
民 象 體
Dân Tượng Thể
25.
兼 山 物 Kim
Sơn Vật 26.
物 君 金
Vật Quân Kim
27.
物 臣 木 Vật
Thần Mộc 28.
物 民 土
Vật Dân Thổ
29.
物 陰 水 Vật
Âm Thủy 30.
物 陽 火
Vật Dương Hỏa
31.
物 兵 執
Vật Binh Chấp 32.
物 象 春
Vật Tượng Xuân
33.
潛 山 陰 Tiềm
Sơn Âm 34.陰
君 地
Âm Quân Địa
35.
陰 臣 野 Âm
Thần Dă 36.
陰 民 鬼
Âm Dân Quỷ
37.
陰 物 獸 Âm
Vật Thú 38.
陰 陽 樂
Âm Dương Lạc
39.
陰 兵 妖 Âm
Binh Yêu 40.
陰 象 冬
Âm Tượng Đông
41.
連 山 陽 Liên
Sơn Dương 42.
陽 君 天
Dương Quân Thiên
43.
陽 臣 幹 Dương
Thần Cán 44.
陽 民 神
Dương Dân Thần
45.
陽 物 禽
Dương Vật Cầm 46.
陽 陰 禮
Dương Âm Lễ
47.
陽 兵 譴
Dương Binh Khiển 48.
陽 象 夏
Dương Tượng Hạ
49.
藏 山 兵 Tàng
Sơn Binh 50.
兵 君 帥
Binh Quân Soái
51.
兵 臣 佐
Binh Thần Tá 52.
兵 民 軍
Binh Dân Quân
53.
兵 物 材 Binh
Vật Tài 54.
兵 陰 謀
Binh Âm Mưu
55.
兵 陽 陣 Binh
Dương Trận 56.
兵 象 秋
Binh Tượng Thu
57.
迭 山 象 Dật
Sơn Tượng 58.
象 君 日
Tượng Quân Nhật
59.
象 臣 月
Tượng Thần Nguyệt 60.
象 民 星
Tượng Dân Tinh
61.
象 物 雲 Tượng
Vật Linh 62.
象 陰 夜
Tượng Âm Dạ
63.
象 陽 晝 Tượng
Dương Trú 64.
象 兵 氣
Tượng Binh Khí
Thái Cổ Hà Đồ đại Tính-kỷ
太古河圖代性紀
(Thái-cổ Hà-đồ thay thế họ-hàng)
Thanh-khí chưa dâng, trọc-khí chưa ch́m, du-thần chưa linh,
ngũ-sắc chưa phân. Bên trong có vật u-tối gọi là Hỗn-độn tức
Thái-thủy
太始.
Thái-thủy là manh mối của Nguyên-thai 元胎.
Số của Thái-thủy là 1, 1 là Thái-cực
太極.
Thái-cực là cha mẹ của Trời Đất. Trời cao sáng mà trong, Đất
rộng dầy mà đục gọi là Thái-dịch 太易.
Thái-dịch là biến-hoá của Trời Đất. Số của Thái-Dịch là 2, 2
là Lưỡng-nghi
兩儀 thể-hiện
bằng Âm Dương, gọi là Thái-sơ太初.
Thái-sơ là Trời Đất giao nhau. Số của Thái-sơ là 4, 4 là
Tứ-tượng
四象doanh-dịch
để biến thành vạn-vật, gọi là Thái-tố 太素.
Thái-tố là đầu mối của Tam-tài三才.
Số của Thái-tố là 3, 3 doanh-dịch, Trời Đất thai nghén sinh
ra Nam Nữ, gọi là Tam-tài. Tam-tài là Trời Đất đă đầy đủ rồi.
Du-thần động mà linh, nên chim muông, cá mú, sâu bọ,cây cỏ
mới tràn lann trong Trời Đất, gọi là Thái-cổ 太古.
Thái-cổ là đầu mối của sinh-dân, đông tụ hè tán, ăn thịt
chim muông cùng hoa quả mà sinh sôi nẩy nở để thành ra muôn
họ. Họ Phục-hi là con của Toại-nhân
燧人(Thần
đá lửa), nhân sinh từ gió nên lấy họ Phong. Bàn dân thiên-hạ
tôn xưng Ngài là "Thái Hoàng Thái Hạo Phục Hi Hữu Bào Thăng
Long thị
太皇太昊伏羲有庖升龍氏”,
2)
Khí-phần
氣 墳
(Nhân Hoàng Thần Nông thị 地皇神農氏)
1.
天 氣 歸 Thiên
Khí Quy 2.
歸 藏 定 位
Quy Tàng Định Vị
3.
歸 生 魂
Quy Sinh Hồn 4.
歸 動 乘 舟
Quy Động Thừa Châu
5.
歸 長 兄
Quy Trưởng Huynh 6.
歸 育 造 物
Quy Dục Tạo Vật
7.
歸 止 居 域
Quy Chỉ Cư Vực 8.
歸 殺 降
Quy Sát Giáng
9.
地 氣 藏
Địa Khí Tàng 10.
藏 歸 交
Tàng Quy Giao
11.
藏 生 卯 Tàng
Sinh Măo 12.
藏 動 鼠
Tàng Động Thử
13.
藏 長 姊 Tàng
Trường Tỷ 14.藏
育 化 物
Tàng Dục Hóa Vật
15.
藏 止 重 門Tàng
Chỉ Trùng Môn 16.
藏 殺 盜
Tàng Sát Đạo
17.
木 氣 生
Mộc Khí Sinh
18.
生 歸 孕
Sinh Quy Dựng
19.
生 藏 害 Sinh
Tàng Hại 20.
生 動 勳 陽
Sinh Động Huân Dương
21.
生 長 元 胎Sinh
Trưởng Nguyên Thai 22.
生 育 澤
Sinh Dục Trạch
23.
生 止 性
Sinh Chỉ Tính 24.
生 殺 相 克
Sinh Sát Tương Khắc
25.
風 氣 動
Phong khí động 26.
動 歸 乘 軒
Động Quy Thừa Hiên
27.
動 藏 受 種
Động
Tàng Thụ Chủng 28.
動 生 機
Động Sinh Cơ
29.
動 長 風 Động
Trưởng Phong 30.
動 育 源
Động Dục Nguyên
31.
動 止 戒
Động Chỉ Giới 32.
動 殺 虐
Động Sát ngược
33.
火 氣 長
Hoả
Khí Trưởng 34.
長 歸 從 師Trưởng
Quy Tùng Sơn
35.
長 藏 從 夫
Trưởng Tàng Tùng Phu 36.
長 生 志 Trưởng Sinh Chí
37.
長 動 麗
Trưởng Động Lệ 38.
長 育 違 道Trưởng
Dục Vi Đạo
39.
長 止 平 Trưởng
Chỉ B́nh 40.
長 殺 順 性Trưởng
Sát Thuận Tính
41.
水 氣 育 Thủy
Khí Dục
42.
育 歸 流
Dục Quy Lưu
43.
育 藏 海
Dục Tàng Hải 44.
育 生 愛
Dục Sinh Ái
45.
育 動 漁 Dục
Động Ngư 46.
育 長 苗
Dục Trưởng Miêu
47.
育 止 養
Dục Chỉ Dương 48.
育 殺 畜
Dục Sát Súc
49.
山 氣 止 Sơn
Khí Chỉ 50.
止 歸 約
Chỉ Quy Ước
51.
止 藏 淵 Chỉ
Tàng Uyên 52.
止 生 貌
Chỉ Sinh Mạo
53.
止 動 濟 Chỉ
Động Tế
54.
長 植 物
Trưởng Thực Vật
55.
止 育 潤 Chỉ
Dục Nhuận
56.
止 殺 寬 宥
Chỉ Sát Khoan Hựu
57.
金 氣 殺 Kim
Khí Sát 58.
殺 歸 屍
Sát Quy Thi
59.
殺 藏 墓
Sát Tàng Mộ 60.
殺 生 無 忍
Sát Sinh Vô Nhẫn
61.
殺 動 干 戈
Sát Động Can Qua 62.
殺 長 戰
Sát trường Chiến
63.
殺 育 無 傷
Sát Dục Vô Thương
64.
殺 止 亂
Sát Chỉ Loạn
3) H́nh-phần
形墳
(Địa Hoàng Công Tôn Hiên Viên thị
地皇公孫軒轅氏)
1.
乾 形 天 Kiền
H́nh Thiên 2.
地 天?
降 氣
Điạ Thiên Giáng Khí
3.
日 天?
中 道
Nhật Thiên Trung Đạo 4.
月 天?
夜 明
Nguyệt Thiên Dạ Minh
5.
山 天 曲 上
Sơn Thiên Khúc Thượng 6.
川 天 曲 下Xuyên
Thiên Khúc Hạ
7.
雲 天 成 陰
Vân Thiên Thành Âm 8.
氣 天 習 蒙
Khí Thiên Tập Mông
9.
坤 形 地
Khôn H́nh Điạ 10.
天 地 圓 丘Thiên
Điạ Viên Khâu
11.
日 地 圜 宮
Nhật Điạ Hoàn Cung 12.
月 地 斜 曲
Nguyệt Điạ Tà Khúc
13.
山 地 險 徑
Sơn Điạ Hiểm Kính 14.
川 地 廣 平
Xuyên Điạ Quảng B́nh
15.
雲 地 高 林
Vân Điạ Cao Lâm 16.
氣 地 下 濕
Khí Điạ Hạ Thấp
17.
陽 形 日
Dương
H́nh Nhật 18.
天 日 昭 明
Thiên Nhật Chiêu Minh
19.
地 日 景 隨
Điạ Nhật Cảnh Tuỳ 20.
月 日 從 朔
Nguyệt Nhật Tùng Sóc
21.
山 日 沉 西
Sơn Nhật Trầm Tây 22.
川 日 流 光Xuyên
Nhật Lưu Quang
23.
雲 日 蔽 霠
Vân
Nhật Tế Âm
24.
氣 日 緡 蔀
Khí Nhật Mân Bồ
25.
陰 形月
Âm H́nh Nguyệt
26.
天 月 淫
Thiên Nguyệt Dâm
27.
地 月 伏 輝
Điạ
Nguyệt Phục Huy 28.
日 月 代 明 Nhật
Nguyệt Đại Minh
29.
山 月 升 騰
Sơn Nguyệt Thăng Đằng 30.川
月 東 浮Xuyên
nguyệt Đông Phù
31.
雲 月 藏 宮
Vân Nguyệt Tàng Cung 32.
氣 月 冥 陰
Khí Nguyệt Minh Âm
33.
土 形 山
Thổ H́nh Sơn 34.
天 山 嶽
Thiên Sơn Nhạc
35.
地 山 磐 石
Điạ Sơn Bàn Thạch 36.
日 山 危 峰
Nhật Sơn Nguy Phong
37.
月 山 斜 巔
Nguyệt
Sơn Tà Niên 38.
川 山 島
Xuyên Sơn Đảo
39.
雲 山 岫
Vân Sơn Tụ 40.
氣 山 岩
Khí Sơn Nham
41.
水?
形 川
Thủy H́nh Xuyên 42.
天 川 漢
Thiên Xuyên Hán
43.
地 川 河
Điạ Xuyên Hà
44.
日 川 湖
Nhật Xuyên Hồ
45.月
川 曲 池
Nguyệt Xuyên Khúc Tŕ 46.
山 川 澗
Sơn Xuyên Giản
47.
雲 川 溪
Vân Xuyên Khê
48.
氣 川 泉
Khí Xuyên Tuyền
49.
雨 形 雲
Vũ H́nh Vân 50.
天 雲 祥
Thiên Vân Tường
51.
地 雲 黃 霙
Điạ Vân Hoàng Anh 52.
日 雲 赤 曇
Nhật Vân Xích Đàm
53.
月 雲 素 雯
Nguyệt Vân Tố
Văn
54.
山 雲 疊 峰
Sơn Vân Lũy Phong
55.
川 雲 流 潭Xuyên
Vân Lưu Đàm 56.
氣 雲 散 彩
Khí Vân Tán Thái
57.
風 形 氣
Phong H́nh Khí
58.
天氣 垂 氤
Thiên Khí Thùy Nhân
59.
地 氣 騰 氳
Điạ Khí Đằng Uân 60.
日 氣 晝 圍 Nhật
Khí Trú Vi
61.
月 氣 夜 圓
Nguyệt Khí Dạ Viên 62.
山 氣 籠 煙
Sơn Khí Lung Yên
63.
川 氣 浮 光
Xuyên Khí Phù Quang 64.
雲 氣 流 霞
Vân Khí Lưu Hà
Như
ta thấy Cổ Tam Phần chỉ mới có quái-hào đại-tượng mà
chưa có quẻ, có hào. Lại thêm, trong sách có kết hợp âm
dương với ngũ hành khá hoàn-chỉnh, trái với tôn chỉ của Dịch
Tiên Tần.
Mà âm dương ở đây là một loại âm dương hỗn loạn chứ không
biến hoá có trật-tự như âm dương của Dịch Tiên Tần như ta
thấy dưới đây:
Có khi coi dương-quái là vật âm, âm-quái là là vật dương:
chẳng hạn, trong Sơn Phần, các quẻ đơn Tiềm Sơn Âm (mang
tiềm-tượng quẻ khảm
+),
Liên Sơn Dương (mang tiềm-tượng quẻ ly
%)
trong khi Chu Dịch lại cho hai quẻ này lần lượt là dương và
âm chiếu theo nguyên-tắc "Dương-quái đa-âm, âm-quái đa dương
陽卦多陰,陰卦多陽"
(Hệ-từ Hạ-truyện IV/1). Lại nữa, Tam Phần Dịch công nhận các
quy-tắc "Nội trước Ngoại sau” cũng như “Đất trước, Trời
sau","Quân Nội Âm Ngoại" như trong quẻ Quân Âm Hậu (#5) của
Sơn Phần, "Thần Nội Quân Ngoại" như trong quẻ Thần Quân Hầu
(#10). Về h́nh-thức c̣n có thể tạm chấp-nhận, về nghĩa-lư
hẳn sai quấy. Trong khi đó Chu Dịch gọi hào Ngũ là Quân-hào
và hào Nhị là thần-hào; gọi thượng-quái là thiên-quái, gọi
hạ-quái là địa-quái v.v. Huống hồ trong Thượng Kinh quẻ Khảm
](#29)
đi trước quẻ Ly
^
(#30). Ngay khi đó trong Khí Phần quẻ Hoả Khí Trưởng (#33)
lại đi trước quẻ Thủy Khí Dục (#41) v.v.
Cuối đời Đường có ẩn-sĩ thêm vào Hậu-tự ngắn ngủi: "Hà-đồ ẩn
đầu đời Chu. Tam Phần mất đời U (781-771) Lệ (878-842),
Lạc-thư cháy dưới ngọn lửa Tần. Đạo đời trị không c̣n thấy
nữa. Thời Thiên-phục (901-904), ta ẩn nơi phía tây
Thanh-thành, nhân gió mưa đá lở, lộ ra một hộp đá trong đựng
ba thiên cổ-văn, lề đứt, thẻ tre sút, đều là chữ triện, đó
là sách của Cổ Tam Hoàng vậy".
Cho nên Triều Công Vũ và Trương Chấn Tôn có nghi ngờ Cổ
Tam Phần là ngụy-thư, thật là hợp-lư vậy.
PHỤ
LỤC
輓
同
年
雲
亭
進
士楊
尚
書
Văn Đồng Niên (1) Vân Đ́nh Tiến Sĩ (2)
Dương Thượng Thư
(3)
已
矣
楊
大
年
Dĩ hĩ Dương đại niên
雲
樹
心
懸
懸
Vân thụ tâm huyền huyền
回
憶
登
科
後
Hồi ức đăng khoa hậu
與
君
晨
夕
聯
Dữ quân thần tịch liên
相
敬
且
相
愛
Tương kính thả tương ái
遭
逢
如
夙
緣
Tao phùng như túc duyên
有
時
出
京
路
Hữu thời xuất kinh lộ
空
山
聞
落
泉
Không sơn văn lạc tuyền
有
時
上
高
閣
Hữu thời thượng cao các
歌
兒
鳴
素
絃
Ca nhi minh tố huyền
有
時
對
君
飲
Hữu thời đối quân ẩm
大白
浮
八
延
Đại bạch phù bát diên
有
時
與
論
文
Hữu thời dữ luận văn
東
壁
羅
簡
編
Đông bích la giản biên
厄
運
逢
陽
九
Ách vận phùng dương cửu (4)
斗
升
非
貪
天
Đẩu thăng phi tham thiên
予
老
公
亦
老
Dư lăo công diệc lăo
解
組
歸
田
圓
Giải tổ quy điền viên
往
來
不
數
得
Văng lai bất sổ đắc
一
遇
三
年
前
Nhất ngộ tam niên tiền
執
手
問
衰
健
Chấp thủ vấn suy kiện
語
言
殊
未
愆
Ngữ ngôn thù vị khiên
公
年
少
予
歲
Công niên thiểu dư tuế
予
病
疑
公
先
Dư bệnh nghi công tiên
忽
聞
公
訃
至
Hốt văn công phó chí
驚
起
皇
皇
然
Kinh khởi hoàng hoàng nhiên
予
豈
不
厭
世
Dư khởi bất yếm thế
而
公
爭
上
仙
Nhi công tranh thượng tiên
有
酒
為
誰
買
Hữu tửu vị thủy măi
不 買 非 無錢
Bất măi phi vô tiền
有 詩 為 誰寫
Hữu thi vị thùy tả
不 寫 為 無箋
Bất tả vi vô tiên
陳
蕃
榻
不
下
Trần Phồn tháp bất hạ (5)
伯
牙
琴
亦然
Bá Nha cầm diệc nhiên (6)
公
既
棄
予
去
Công kư khí dư khứ
予
亦
不
公
憐
Dư diệc
bất công liên
老
人
哭
無
淚
Lăo nhân
khốc vô lệ
河
必
強
而漣
Hà tất
cưỡng nhi liên
(1)
Đồng-niên: thường thường người cùng tuổi được
gọi là đồng-niên, đồng-tuế, hay đồng niên canh. Ở đây cụ
Tam-nguyên Yên-đổ hơn cụ Nghè Vân-đ́nh 4 tuổi nên
tiếng ghép đồng-niên dùng để chỉ hai người cùng đỗ cử-nhân
cùng khoa thi (1964) và cùng Trường Hà.
(2) Cụ
Dương Khuê đỗ Tiến-sĩ năm Mậu-th́n (1868).
(3) Cụ
Nghè Vân-đ́nh làm quan đến chức H́nh Bộ Thượng Thư.
(4) Ách
vận phùng dương cửu: lấy chữ từ “Hán-thư Luật-lịch Chí”. Xem
Chú-thích (5) phần bài dịch.
(5) Trần
Phồn tháp bất hạ: Đời Đông Hán có Trần Phồn
陳
蕃
làm thái-thú
quận Nam-xương,
miền
đó
có
một
cao-sĩ
là
Từ
Trĩ
徐
穉, tự
Nhụ-tử
孺 子.
Họ
Trần
rất
qúi
trọng
Trĩ. Có để riêng một chiếc giường: Trĩ lại
thăm kéo
giường
xuống mời ngồi, Trĩ đi lại treo lên, không cho ai khác ngồi
nữa.
(6) Bá Nha:
Đời Xuân Thu, nước Sở có một người tên là Bá Nha
伯牙
đánh
đàn sắt
rất hay. Mỗi lần dạo đàn ư tại cao-sơn hay lưu-thủy, Chung
Tử Kỳ
鐘子期
đều biết cả; Tử Kỳ mất, Bá Nha tự nhủ trên đời chẳng c̣n
tri-âm
biết
thưởng-thức tiếng đàn của ḿnh nữa, nên bửa đàn bứt dây,
trọn đời
không gẩy
đàn nữa.
Chính Cụ
đă Việt dịch bài thơ kể trên. Tôi vụng nghĩ bài dịch này hay
và thâm-thúy hơn nguyên-bản nhiều.
KHÓC BẠN
Bác Dương thôi đă thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi ḷng ta.
Nhớ từ thuở
(0) ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương (1) ăm ắp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao
(3) trước sau,
cùng nhau hoạn nạn,
Miếng
chẳng dám tham trời (6);
Tôi già, Bác cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế th́ thôi mới là!
Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,
Tuổi tôi kể c̣n hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay?
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời.
Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đă mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
những hững hờ (7),
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Chú-thích
(0) Đăng-khoa:
đi thi đỗ.
Các chú
thích khác xin xem ở đầu Chương.
TỰ TRÀO
Cũng chẳng giầu, mà cũng
chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ
làng nhàng.
Cơm ăn ba bữa c̣n lo nước;
Thuế thiếu vài nguyên (1) đă
có làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách
(2),
Mềm môi chén măi tít cung
thang (3).
Nghĩ ḿnh lại ngán cho ḿnh
nhỉ,
Thế cũng bia xanh (4), cũng
bảng vàng (5).
Giải-thích
(1) Nguyên
là một đồng bạc Đông-dương thời Pháp-thuộc.
(2), (3)
Xin xem chú-thích ở đầu Chương.
(4) Bia
xanh: Tấm bia bằng đá xanh khắc tên các ông tiến-sĩ dựng ở
Văn-miếu Hà-Nội về triều nhà Hậu Lê và ở Văn-miếu Huế về
triều nhà Nguyễn.
(5) Bảng
vàng: dịch chữ “Kim-bảng
金榜”
là bảng ghi tên các tân-khoa mới đậu tiến-sĩ.
Sau hết,
xin ghi vào đây một bài thơ “Độc Dịch” của Cụ Tam-Nguyên
Yên-đổ:
讀
易
冬
日
爭
如
夏
日
長
南
風
還
有
北
風
涼
自
為
可
口
鴟
嗔
鳳
不
盡
機
心
雀
捕
螳
海
宇
若
開
新
世
界
民
風
應
入
古
鴻
荒
清
晨
獨
起
觀
周
易
消
息
盈
虛
未
易
詳
ĐỘC DỊCH
Đông nhật tranh như hạ nhật trường,
Nam phong hoàn hữu bắc phong lương.
Tự vi khả khẩu xi sân phụng;
Bất tận cơ tâm tước bổ đường.
Hải-vũ nhược khai tân-thế-giới;
Dân phong ưng nhập cổ hồng hoang.
Thanh thần độc khởi quan Chu Dịch,
Tiêu-tức, doanh-hư vị dị tường.
ĐỌC DỊCH
Ngày đông qua chóng, buổi hè lâu.
Gió bấc, gió nồm đắp đổi nhau.
Phượng phỗng: cú mèo đâu lượng trước?
Sẻ ŕnh: bọ ngựa có ngờ đâu!
Dân-phong muốn nhập hồng hoang cũ,
Vũ-trụ dường khai cảnh vực cầu.
Thức dậy sớm mai chua Cổ Dịch,
Doanh-hư, tiêu-tức, khó lường sâu!
Việt Chi Nguyễn Hữu Quang cẩn dịch
THƯ TỊCH KHẢO
1A
Cổ Tam
Phần
古三墳
của Khuyết Danh, Hán Ngụy Tùng San Bản, 1592.
1B
Văn Tuyển
文選,
Lương
梁
●
Chiêu Minh Thái-tử
昭明太子
soạn, phụ Khảo-dị, Sơ-bản, Nghệ-văn
Ấn-thư-quán, Đài-bắc, tháng 12-1998.
1C
Hán Thư
漢書,
Ban Cố
班固
soạn, do
An B́nh Thu
安平秋
& Trương Truyền Tỷ
張傳璽
Chủ-biên
in Nhị Thập Tứ Sử Toàn Dịch
二十四史全譯,
do Hứa Gia Lộ
許嘉璐
Chủ-biên, Toàn 3 Sách, Đệ-nhất-bản, Hán-Ngữ
Đại-Từ-Điển Xuất-bản-xă, Thượng-hải, tháng 1-2004.
1D
Trung Quốc Cổ Đại Đích Thiên Văn Cập Kỳ Vũ Trụ Quan
中國古代的天文學及其宇宙觀
Sternkunde und Weltbild im Alten China, Gesammelte Aufsätze
von Wolfram Eberhard, Distributed by The Chinese Materials
and Research Aids Service Center, Inc., Taipei, 1970.
1E
Bách Việt Tiên Hiền Chí
百越先賢志,
Minh
●
Âu Đại Nhậm Trinh Bá
歐大任楨
伯
soạn, Lĩnh-nam Di-thư bản, Trung Hoa Thư-cục phát-hành.
1F
Tân Dịch Hoài-Nam-tử
新譯淮南子,
Hùng Lễ Hối
熊禮匯
chú-dịch, Hầu Năi Tuệ
候迺慧
hiệu-duyệt, 2 Tập, Tam-dân Thư-cục, Đài-bắc, 1997.
1G
Tân Dịch
Quốc-ngữ Độc-bản
新譯國語讀本,
Dịch Trung Thiên
易中天
chú-thích, Hầu Năi Tuệ
侯迺慧
hiệu duyệt, Tam Dân Thư-cục, Đài-bắc, 1995.
1H
Thập Tam Kinh Chú Sớ
十三經注疏,
Nguyễn Nguyên
阮元
hiệu-khắc, Trung Hoa Thư-cục, Bắc-kinh, tháng
11-1983.
Xem tiếp
Kỳ 3 (CHƯƠNG 2)
GS
Nguyễn
Hữu
Quang
Nguyên
Giảng Viên Vật Lư Chuyên về Cơ Học
Định Đề
(Axiomatic Mechanics, a branch of
Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài G̣n trước năm 1975
|